Quyển 1: Vô Tình Chi Nhân, Hữu Tình Chi Tâm.
Chương 26: Muôn Hình Vạn Trạng.
0 Bình luận - Độ dài: 26,361 từ - Cập nhật:
"Xương cốt phát sáng... còn cầm sách cổ nữa?" Phan Hương thì thầm khi chúng tôi rời khỏi quán phở chua, mắt cô bé vẫn ánh lên vẻ tò mò không giấu giếm. "Nghe ly kỳ thật đấy anh Hạ. Liệu có phải lại là một Dị Vật Nội Sinh nào đó không?"
"Khó nói lắm," tôi đáp, bước chân chậm rãi trên con đường nhỏ của thị trấn. "Có thể là Dị Vật, cũng có thể chỉ là lời đồn đại thêu dệt. Nhưng nơi có linh khí hội tụ, lại có những câu chuyện kỳ lạ như vậy, thường ẩn chứa nhiều điều bất thường." Tôi nghĩ về núi Kỳ Lân, về chùa Côn Sơn. Có lẽ nên ghé qua đó một chuyến.
Nhưng rồi, hình ảnh Hoàng Sơn với gương mặt đầy lo lắng cho em gái lại hiện lên trong tâm trí tôi. Hắn đã về Huế được gần hai tuần rồi. Dù biết nơi đó có gia đình chăm sóc, nhưng tôi vẫn không khỏi có chút bận tâm.
"Hay là…" tôi quay sang Phan Hương, "Trước khi đi khám phá Côn Sơn, chúng ta vòng về Huế thăm Sơn huynh một chuyến đi?"
Phan Hương có vẻ hơi ngạc nhiên, rồi mỉm cười gật đầu. "Vâng ạ. Em cũng đang lo không biết bệnh tình của em gái anh Sơn thế nào rồi. Thăm anh ấy một chút cũng tốt."
Vậy là quyết định lại được thay đổi. Thay vì đi Côn Sơn ngay, chúng tôi sẽ tiếp tục hành trình vào Nam, điểm đến trước mắt là thành phố Huế mộng mơ. Từ đây vào Huế còn một quãng đường khá xa, đi qua nhiều tỉnh thành miền Trung khác. Có lẽ đây cũng là cơ hội để tôi và Phan Hương tiếp tục rèn luyện, và có thêm những trải nghiệm mới về thế giới đa dạng này.
Chúng tôi bắt một chuyến xe khách khác, loại xe giường nằm tiện nghi hơn cho chặng đường dài. Xe lăn bánh rời khỏi Thanh Hóa, đưa chúng tôi vào sâu hơn vùng đất miền Trung đầy nắng gió. Cảnh vật hai bên đường thay đổi liên tục, khi thì là những bãi biển cát trắng mịn màng với hàng dương xanh rì rào trong gió, khi lại là những cánh đồng lúa mênh mông, những ngọn đồi trọc trơ trụi, hay những khu dân cư mới mọc lên với những ngôi nhà ống san sát.
Trên chuyến xe, chúng tôi gặp gỡ nhiều người hơn, những hành khách đủ mọi lứa tuổi, ngành nghề, đến từ nhiều vùng miền khác nhau. Không còn sự cảnh giác đề phòng như khi ở vùng núi, tôi và Phan Hương cũng cởi mở hơn trong giao tiếp. Chúng tôi trò chuyện với những người ngồi cạnh, nghe họ kể về cuộc sống, về công việc, về những câu chuyện đời thường.
Tại một trạm dừng chân ở Quảng Trị, khi đang ngồi uống nước mía mát lạnh, chúng tôi tình cờ bắt chuyện với một người đàn ông trạc ba mươi tuổi, dáng vẻ thư sinh, đeo kính cận, tay luôn ôm khư khư một chiếc máy tính bảng cũ kỹ. Anh ta tự giới thiệu là một nhà nghiên cứu lịch sử tự do, đang trên đường vào Huế để tìm tư liệu cho cuốn sách về chiến tranh WWIV.
"Thế hệ chúng tôi may mắn không phải trải qua bom đạn," anh ta nói, giọng trầm buồn, "nhưng những di chứng của nó thì vẫn còn đó. Tôi muốn ghi lại những câu chuyện, những mảnh đời bị lãng quên trong cuộc chiến, để thế hệ sau này hiểu rõ hơn về quá khứ." Anh ta thở dài. "Mà các cô cậu biết không, thời kỳ đó, ở cái vùng đất Quảng Trị này này, còn có nhiều chuyện kỳ lạ lắm."
"Chuyện kỳ lạ sao ạ?" Phan Hương tò mò hỏi.
"Ừ," anh gật đầu. "Người ta kể lại, sau những trận đánh lớn, không chỉ có 'ma trơi' như các nơi khác, mà còn xuất hiện cả những… 'người không bóng'. Họ mặc quân phục cũ kỹ, đi lại lầm lũi trong đêm, nhưng lại không hề có bóng dưới ánh trăng hay ánh đèn. Có người còn bảo đã từng nói chuyện với họ, nhưng sáng hôm sau thì không còn nhớ gì cả."
"Người không bóng?" Tôi và Phan Hương nhìn nhau, có chút rùng mình. Liệu đó có phải là một dạng tàn niệm đặc biệt, hay là một loại Dị chủng nào đó?
"Chỉ là truyền thuyết thôi," anh nghiên cứu cười nhẹ. "Nhưng cũng đủ thấy chiến tranh nó khủng khiếp thế nào, đến mức sinh ra cả những lời đồn đại kỳ quái như vậy."
Anh ta trò chuyện thêm một lúc rồi lại vội vã lên xe đi trước. Chúng tôi nhìn theo, lòng có chút suy tư. Thế giới này, quả thực muôn hình vạn trạng.
Tiếp tục hành trình, khi xe đi qua một khu chợ quê nhỏ ở đâu đó giữa Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, chúng tôi quyết định xuống xe đi dạo một vòng, mua chút đặc sản địa phương làm quà cho gia đình Hoàng Sơn.
Khu chợ không lớn nhưng khá đông vui, bày bán đủ thứ từ rau củ quả tươi ngon, hải sản khô, đến những món đồ thủ công mỹ nghệ đơn sơ. Đang đi ngang qua một quầy bán đồ gốm, tôi và Phan Hương bất ngờ nghe thấy tiếng cãi vã khá lớn.
"Trả lại tiền đây. Cái ấm chết tiệt này chả được tích sự gì cả. Toàn lừa đảo." Một người phụ nữ trung niên, ăn mặc có phần lòe loẹt, đang đập mạnh chiếc ấm trà sứt mẻ xuống mặt bàn gỗ ọp ẹp, hét lớn vào mặt người bán hàng một ông lão gầy gò, khắc khổ, trông khá tội nghiệp.
"Tôi… tôi đã nói rồi mà," ông lão bán hàng lí nhí thanh minh, mặt tái mét. "Nó chỉ… chỉ giúp nước trà ấm lâu hơn một chút thôi… chứ đâu có thần thông gì đâu mà bà đòi nó phải biến ra vàng?"
"Ấm giữ nhiệt cái con khỉ!" Người phụ nữ gắt lên. "Lão già nhà quê này dám lừa cả bà à? Lúc bán thì quảng cáo ngon ngọt, nào là 'ấm thần giữ lộc', nào là 'rót nước sôi vào để qua đêm không nguội'. Thế mà tôi về dùng thử, nước nguội ngắt! Lại còn sứt cả vòi nữa chứ! Trả tiền đây!"
Tôi và Phan Hương liếc nhìn nhau, cố gắng nhịn cười.
"Nhưng… nhưng cái ấm này bà làm rơi nên nó mới sứt mà," ông lão bán hàng vẫn cố gắng giải thích trong sợ hãi.
"Láo toét. Ta không cần biết! Không trả tiền thì đừng trách." Người phụ nữ vung tay định giật lấy những món đồ gốm khác trên quầy.
Thấy tình hình có vẻ căng thẳng, tôi đành bước tới can ngăn. "Thôi nào chị, có gì từ từ nói. Sao lại to tiếng ở đây làm gì?" Tôi cố gắng dùng giọng điệu ôn hòa.
Người phụ nữ quay sang lườm tôi. "Cậu là ai mà xen vào? Không phải việc của cậu thì biến đi!"
"Chỉ là thấy chuyện bất bình thôi," tôi đáp, ánh mắt bình tĩnh nhìn thẳng vào người phụ nữ. "Cái ấm trà này, tuy có chút đặc biệt, nhưng cũng không đáng để chị phải làm khó ông cụ thế này. Hay là để tôi mua lại cái ấm đó cho chị, coi như giúp ông cụ một chút?" Tôi khẽ vận Thiên Nhãn, cảm nhận năng lượng yếu ớt nhưng có thật từ chiếc ấm trà sứt mẻ kia. Năng lực không đáng kể nhưng tác dụng phụ lại có vẻ phiền phức.
Người phụ nữ nghe tôi nói vậy thì hơi khựng lại, liếc nhìn tôi từ đầu đến chân, thấy tôi ăn mặc cũng tươm tất, lại tỏ ra hào phóng, thái độ liền dịu hẳn đi. "Thật… thật không? Cậu mua lại nó thật à?"
"Thật chứ," tôi gật đầu. "Chị cứ ra giá đi."
Sau một hồi mặc cả qua lại, cuối cùng tôi cũng mua được chiếc ấm trà sứt mẻ với cái giá khá rẻ. Người phụ nữ vui vẻ cầm tiền bỏ đi. Ông lão bán hàng thì cảm ơn tôi rối rít.
"Cảm ơn cậu nhiều lắm. May mà có cậu, không thì tôi không biết phải làm sao nữa," ông lão nói, giọng đầy biết ơn.
"Không có gì đâu ạ," tôi đáp. Tôi cầm chiếc ấm trà cũ kỹ trên tay, khẽ lắc đầu cười. Lại thêm một món đồ vô dụng vào bộ sưu tập bất đắc dĩ của mình.
Ngươi định mở tiệm ve chai à? Hắc Ảnh lại làu bàu.
Chúng tôi rời khỏi khu chợ, trên tay tôi là chiếc ấm trà "thần" sứt vòi. Phan Hương đi bên cạnh, không nhịn được cười.
"Anh mua cái ấm đó về làm gì vậy?"
"Để pha trà," tôi nhún vai. "Biết đâu nước pha ra lại có vị đặc biệt thì sao?"
Hai chúng tôi cùng bật cười.
Chúng tôi lại bắt xe khách để tiếp tục hành trình về Huế. Chuyến đi lần này không còn gặp thêm sự cố đáng kể nào nữa, chỉ đơn thuần là những cuộc trò chuyện nho nhỏ với những người đồng hành tình cờ, những bữa ăn nhanh ở trạm dừng chân, và những giấc ngủ chập chờn trên chiếc ghế ngả lưng không mấy thoải mái.
Khi xe đi qua đèo Hải Vân, một trong "thiên hạ đệ nhất hùng quan", khung cảnh hiện ra trước mắt thực sự hùng vĩ. Một bên là vách núi cao sừng sững, cây cối xanh rì bám cheo leo. Một bên là biển Đông xanh ngắt mênh mông, sóng vỗ rì rào vào bờ cát trắng phía dưới. Xa xa, thành phố Đà Nẵng hiện đại ẩn hiện trong làn sương mờ.
"Đẹp quá." Phan Hương lại trầm trồ, áp mặt vào cửa kính xe ngắm nhìn không chớp mắt.
Tôi cũng im lặng ngắm nhìn khung cảnh tuyệt đẹp này. Thiên nhiên quả thực luôn có sức mạnh chữa lành kỳ diệu, giúp con người tạm quên đi những lo toan, phiền muộn. Nhưng đồng thời, Thiên Nhãn của tôi cũng cảm nhận được những luồng năng lượng phức tạp đan xen nơi đây. Có linh khí ôn hòa của núi non biển cả, nhưng cũng có những dòng khí tức âm u còn sót lại từ những di tích chiến tranh cũ kỹ nằm rải rác trên sườn đèo, và cả những dao động năng lượng bất thường từ các phương tiện giao thông công nghệ cao chạy xuyên qua đường hầm mới mở dưới chân đèo. Một sự giao thoa giữa cũ và mới, giữa thiên nhiên và nhân tạo, giữa bình yên và những nguy hiểm tiềm ẩn.
Qua khỏi đèo Hải Vân, chúng tôi chính thức đặt chân lên đất Thừa Thiên Huế. Không khí ở đây dường như có chút gì đó khác biệt, trầm mặc hơn, cổ kính hơn. Những ngôi nhà vườn ẩn mình sau những bức tường rêu phong, những hàng cây long não cổ thụ tỏa bóng mát hai bên đường, và dòng sông Hương hiền hòa lững lờ trôi… tất cả tạo nên một vẻ đẹp rất riêng, rất Huế.
Xe dừng lại ở bến xe phía Nam thành phố Huế vào một buổi chiều muộn. Chúng tôi xuống xe, cảm nhận cái nắng dịu nhẹ và không khí trong lành của đất cố đô. Tôi mở thiết bị liên lạc, gửi một tin nhắn ngắn cho Hoàng Sơn báo rằng chúng tôi đã đến nơi.
Chỉ vài phút sau, một tin nhắn thoại được gửi lại, giọng Hoàng Sơn vang lên đầy vui mừng xen lẫn chút ngạc nhiên: "Trời! Huynh với cô Hương vào đến Huế thật hả? Sao không báo trước cho ta một tiếng? Đang ở đâu đó? Đợi ta chút, ta ra đón liền!"
Tôi mỉm cười, nhắn lại địa chỉ bến xe. Có vẻ như Hoàng Sơn vẫn giữ tính cách nhiệt tình và nóng vội của mình.
Chúng tôi tìm một quán nước nhỏ gần bến xe ngồi chờ. Phan Hương có vẻ hơi hồi hộp. "Lát nữa… gặp gia đình anh Sơn… em có cần phải chuẩn bị gì không ạ?"
"Cứ tự nhiên thôi," tôi đáp. "Gia đình Sơn huynh cũng là người bình thường, hiền lành thôi."
Khoảng nửa tiếng sau, Hoàng Sơn đã xuất hiện ở đầu đường, không phải đi một mình, mà đang chở theo một người bằng chiếc xe máy điện cũ kỹ. Người ngồi sau trông khá giống Hoàng Sơn, nhưng có phần già dặn và khắc khổ hơn, có lẽ là anh trai hoặc họ hàng gì đó của hắn.
"Lý Hạ huynh. Cô Hương." Hoàng Sơn reo lên từ xa, vẫy tay lia lịa. Hắn đỗ xe lại, nhanh chóng nhảy xuống, gương mặt rạng rỡ hẳn lên khi gặp lại chúng tôi. Trông hắn có vẻ khỏe mạnh và tinh thần tốt hơn nhiều so với lúc rời đi. "Đi đường có mệt lắm không? Xin lỗi vì không ra sớm hơn được, tại nhà có chút việc."
"Không sao đâu, bọn tôi cũng vừa mới tới thôi," tôi đáp.
"Đây là anh cả của ta, Hoàng An," Hoàng Sơn giới thiệu người đi cùng. "Ảnh đang làm thợ mộc gần đây, tiện đường nên ta nhờ ảnh chở ra luôn."
Anh Hoàng An trông có vẻ ít nói và trầm tính hơn Hoàng Sơn, anh chỉ khẽ gật đầu chào chúng tôi, ánh mắt có chút tò mò nhưng vẫn giữ vẻ lịch sự.
"Thôi, lên xe về nhà đã," Hoàng Sơn giục. "Bố mẹ ta mong gặp hai người lắm đó. À mà này," hắn hạ giọng, ghé sát vào tai tôi, "Tin vui. Con bé út nhà ta… đỡ nhiều rồi. Cái loại thuốc đặc trị mới mà huynh nói lúc trước á, ta tìm cách liên lạc được với một người quen bên AOP, họ gửi về cho một ít. Đúng là hiệu quả thật. Bác sĩ bảo tình hình khả quan lắm." Ánh mắt hắn ánh lên niềm vui và sự biết ơn không giấu giếm.
Nghe tin đó, lòng tôi cũng nhẹ nhõm hẳn đi. Ít nhất thì gánh nặng lớn nhất trong lòng Hoàng Sơn cũng đã vơi bớt phần nào.
Chiếc xe điện cũ kỹ chở cả ba người chúng tôi và đống hành lý len lỏi qua những con đường nhỏ của thành phố Huế. Hoàng Sơn ngồi sau cùng, luôn miệng kể về những đổi thay của Huế, về những món ăn ngon, về những địa điểm thú vị mà hắn định dẫn chúng tôi đi chơi. Phan Hương ngồi giữa, vừa lắng nghe vừa tò mò ngắm nhìn cảnh vật xung quanh. Anh Hoàng An thì chỉ im lặng lái xe, thỉnh thoảng mới đáp lại vài câu hỏi của em trai.
Xe dừng lại trước một ngôi nhà nhỏ nằm trong một con hẻm yên tĩnh, không quá xa trung tâm thành phố. Ngôi nhà không lớn lắm, kiến trúc theo kiểu nhà rường truyền thống của Huế, với mái ngói đỏ tươi, cột gỗ lim và khoảng sân nhỏ trồng vài cây hoa sứ trắng muốt đang mùa nở rộ.
Cánh cửa gỗ hé mở, một người phụ nữ trung niên, dáng người nhỏ nhắn, phúc hậu bước ra, theo sau là một ông lão tóc đã bạc trắng, gương mặt hiền từ nhưng có phần nghiêm nghị. Đó là bố mẹ của Hoàng Sơn.
"Bố, mẹ, con về rồi đây." Hoàng Sơn reo lên, nhảy xuống xe chạy vào ôm chầm lấy mẹ. "Con có đưa cả bạn về chơi nữa này."
Bố mẹ Hoàng Sơn nhìn tôi và Phan Hương với ánh mắt có chút ngạc nhiên, rồi nhanh chóng nở nụ cười hiền hậu, niềm nở.
"Chào hai bác ạ," tôi và Phan Hương đồng thanh cúi đầu chào.
"Ối dào, khách quý đến nhà." Mẹ Hoàng Sơn vui vẻ nói, bà kéo tay chúng tôi vào nhà. "Hai cháu đi đường xa chắc mệt lắm rồi. Vào nhà nghỉ ngơi uống chén nước đã."
Bố Hoàng Sơn cũng gật đầu chào, ánh mắt ông nhìn chúng tôi kỹ hơn một chút, đặc biệt là khi nhìn tôi, nhưng không nói gì nhiều.
Chúng tôi bước vào trong nhà. Gian nhà chính bài trí đơn sơ nhưng ấm cúng, sạch sẽ. Bàn thờ gia tiên đặt ở vị trí trang trọng. Bộ bàn ghế gỗ tiếp khách đã cũ nhưng được lau chùi bóng loáng. Trên tường treo vài bức tranh thủy mặc và ảnh gia đình.
"Đây là Lý Hạ, còn đây là Phan Hương," Hoàng Sơn giới thiệu chúng tôi với bố mẹ. "Hai người này là huynh đệ, bằng hữu đã giúp đỡ con rất nhiều trên đường đi đó bố mẹ."
"Ôi, vậy thì quý hóa quá," mẹ Hoàng Sơn nói, bà nhìn chúng tôi với ánh mắt biết ơn. "Cảm ơn hai cháu đã giúp đỡ thằng Sơn nhà bác nhé. Nó tính tình nóng nảy, bộc trực, đi đường chắc gây không ít phiền phức cho hai cháu."
"Dạ không có đâu ạ," tôi mỉm cười đáp. "Sơn huynh là người tốt, rất thẳng thắn và nghĩa khí."
"Ngồi đi, ngồi đi hai cháu," bố Hoàng Sơn lên tiếng, giọng ông trầm và ấm. Ông tự tay pha trà mời chúng tôi.
Trong lúc mẹ Hoàng Sơn vào bếp chuẩn bị thêm đồ ăn, bố Hoàng Sơn ngồi lại trò chuyện với chúng tôi. Ông hỏi han về quê quán, về hành trình của chúng tôi, về những nơi đã đi qua. Ông có vẻ là người ít nói, nhưng kiến thức lại khá uyên bác, đặc biệt là về lịch sử và văn hóa Huế. Ông kể cho chúng tôi nghe về những câu chuyện xưa của đất cố đô, về những thăng trầm lịch sử mà mảnh đất này đã trải qua. Ánh mắt ông khi kể chuyện luôn ánh lên một niềm tự hào thầm lặng về quê hương mình.
Một lúc sau, mẹ Hoàng Sơn gọi vọng ra từ dưới bếp: "Sơn ơi, xuống phụ mẹ một tay bưng đồ ăn lên cho mấy anh chị nào!"
"Dạ con xuống liền." Hoàng Sơn đáp, rồi quay sang chúng tôi. "Hai người ngồi chơi với bố ta nhé. Ta xuống xem có món gì ngon không." Hắn cười hề hề rồi chạy tót xuống bếp.
Bữa cơm tối diễn ra trong bầu không khí ấm áp, thân tình, khác hẳn sự cô độc trên những chặng đường dài. Mâm cơm không quá cầu kỳ nhưng đầy ắp những món ăn đặc trưng của Huế, được bày biện đẹp mắt trên chiếc mâm đồng cũ. Mẹ Hoàng Sơn quả là người phụ nữ khéo léo, đảm đang.
Ban đầu, không khí có phần hơi trầm lắng, chủ yếu là do bố Hoàng Sơn và anh Hoàng An đều là những người ít nói. Mẹ Hoàng Sơn nhận ra điều đó, liền mỉm cười lên tiếng phá vỡ sự im lặng.
"Bác xin tự giới thiệu lại nhé, bác là mẹ của thằng Sơn, tên là Lan. Còn ông nhà bác tên là Minh," bà chỉ về phía bố Hoàng Sơn đang ngồi lặng lẽ nhấp chén trà. "Thằng An thì hai cháu gặp lúc nãy rồi, là anh cả của thằng Sơn." Bà cười hiền hậu. "Còn bé út nhà bác tên là Mai, con bé hơi yếu nên đang nghỉ trong phòng."
"Dạ, cháu là Lý Hạ, rất vui được làm quen với hai bác và anh An ạ," tôi cũng đáp lễ.
"Cháu là Phan Hương, cháu cảm ơn hai bác đã đón tiếp chu đáo ạ," Phan Hương cũng lễ phép nói theo, gương mặt cô bé thoáng chút ngượng ngùng.
"Ối dào, khách sáo làm gì," bà Lan xua tay, gắp thức ăn vào bát cho tôi và Phan Hương. "Cứ ăn uống tự nhiên như ở nhà đi hai cháu. Nghe thằng Sơn kể hai cháu giúp đỡ nó nhiều lắm, bác thực lòng biết ơn." Bà nhìn chúng tôi với ánh mắt ấm áp. "Hai cháu cũng còn trẻ, trông thư sinh thế này, sao lại lang bạt trên đường vất vả vậy? Bố mẹ ở nhà chắc lo lắng lắm?"
Phan Hương nghe nhắc đến gia đình thì mặt hơi buồn xuống, nhưng tôi đã nhanh chóng đỡ lời. "Dạ, chúng cháu chỉ là muốn đi đây đi đó cho biết đó biết đây thôi ạ. Cũng là một cách để rèn luyện bản thân." Tôi cố gắng trả lời một cách chung chung.
"À ra vậy," bà Lan gật gù, cũng không hỏi sâu thêm. "Vậy hai cháu quê ở đâu thế?"
Phần lớn thời gian sau đó, chủ yếu là bà Lan và Hoàng Sơn nói chuyện, thỉnh thoảng mẹ Hoàng Sơn lại quay sang hỏi han Phan Hương về những chuyện con gái. Phan Hương ban đầu còn hơi rụt rè, nhưng trước sự nhiệt tình và gần gũi của bà Lan, cô bé cũng dần cởi mở hơn, kể về quê hương phía Bắc, về những món ăn, phong cảnh nơi cô sinh ra.
Bố Hoàng Sơn và anh Hoàng An thì vẫn giữ vẻ trầm lặng, chủ yếu lắng nghe câu chuyện, thỉnh thoảng mới gật đầu hoặc chen vào một vài câu ngắn gọn. Bố Hoàng Sơn dường như rất quan tâm đến tôi, ánh mắt ông thỉnh thoảng lại dừng lại ở tôi khá lâu, như thể đang quan sát, đánh giá điều gì đó.
"Nghe thằng Sơn kể cháu cũng biết chút ít về cầm kỳ thi họa hả, Hạ?" Bố Hoàng Sơn đột nhiên lên tiếng hỏi tôi, phá vỡ sự im lặng của ông từ đầu bữa ăn.
Tôi hơi ngạc nhiên, liếc nhìn Hoàng Sơn đang giả vờ cắm cúi ăn cơm. Chắc là hắn đã kể với bố mẹ về việc tôi thích đọc sách và có thể… vẽ vời linh tinh. "Dạ, cháu chỉ biết sơ sơ thôi ạ, gọi là chút thú vui tao nhã."
Bố Hoàng Sơn gật gù, vẻ mặt có chút hứng thú. "Thanh niên bây giờ ít ai còn giữ được những thú vui đó lắm." Ông nhìn tôi, rồi bất ngờ hỏi: "Cháu uống được rượu không?"
Câu hỏi của ông khiến mọi người hơi ngạc nhiên, kể cả Hoàng Sơn. Tôi cũng hơi bất ngờ, nhưng vẫn lễ phép đáp: "Dạ, cháu cũng biết uống một chút ạ."
"Vậy thì tốt!" Bố Hoàng Sơn như chỉ chờ có thế, ông đứng dậy, đi vào gian trong, rồi quay ra với một bình rượu sành nhỏ màu nâu đất, trông khá cũ kỹ. "Đây là rượu thuốc gia truyền của nhà bác, ngâm hạ thổ cũng được hơn chục năm rồi. Bình thường chỉ dám mang ra đãi khách quý thôi." Ông rót ra ba chiếc chén nhỏ bằng sứ trắng. "An, con cũng uống với bố và cậu Hạ một ly."
Anh Hoàng An hơi ngạc nhiên, nhưng cũng gật đầu đồng ý. Hoàng Sơn thì mắt sáng rực lên, nhưng lại bị mẹ lườm một cái nên đành tiu nghỉu ngồi im.
Ba người đàn ông chúng tôi nâng chén. Tôi nhấp một ngụm nhỏ, từ tốn cảm nhận hương vị đặc biệt của thứ rượu gia truyền.
Tôi khẽ đặt chén rượu xuống, ánh mắt không giấu được sự thích thú và một chút suy tư. "Chén rượu này," tôi buột miệng, giọng nói trầm tĩnh hơn, không còn vẻ khách sáo ban đầu, "Hương thơm đậm đà, vị cay mà không gắt, ấm áp mà không bỏng rát. Nếm kỹ còn thấy phảng phất vị ngọt thanh của cam thảo, chút đăng đắng của hoàng kỳ, và cả hương thơm nồng nàn của đinh lăng, thiên niên kiện… hòa quyện một cách rất tinh tế. Nước rượu trong, màu hổ phách nhạt, chứng tỏ đã được lọc kỹ và ngâm ủ đủ thời gian. Xem ra, bác Minh đã phải tốn không ít tâm huyết và công sức để có được bình rượu quý thế này."
Tôi nói một mạch, hoàn toàn theo cảm nhận và một chút kiến thức về thảo dược mà tôi tìm hiểu được trước đây, không ngờ rằng lời nhận xét có phần “múa rìu qua mắt thợ” của mình lại khiến không khí trong phòng đột nhiên im lặng. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía tôi, đặc biệt là bố Hoàng Sơn.
Sau vài giây ngạc nhiên, ông Minh phá lên cười lớn, tiếng cười sảng khoái, đầy vẻ hài lòng, khác hẳn vẻ trầm mặc thường ngày. "Ha ha ha. Hay.. Hay lắm. Không ngờ cậu Hạ đây tuổi còn trẻ mà lại có khẩu vị tinh tế và am hiểu về rượu thuốc đến vậy." Ông nhìn tôi với ánh mắt thực sự phấn khởi và đầy thiện cảm. "Cháu thực sự biết về rượu à?"
Tôi hơi ngượng, nhận ra mình vừa "lỡ lời". "Dạ, cháu cũng không dám nhận là biết nhiều," tôi cười trừ. "Cháu không uống rượu nhiều, nhưng trước đây có chút tò mò tìm hiểu về các loại thảo dược và cách ngâm ủ rượu truyền thống thôi ạ. Thấy rượu của bác thực sự đặc biệt nên buột miệng nói vài lời cảm nhận."
"Không phải 'biết sơ sơ' đâu," ông Minh xua tay, ánh mắt vẫn lấp lánh niềm vui. "Những vị thuốc cháu vừa kể, rồi cả cách cháu nhận xét về hương vị, nước rượu… đều rất chính xác. Đúng là rượu này bác đã phải tự tay chọn lựa từng vị thuốc, sao tẩm cẩn thận, rồi hạ thổ hơn mười năm trời mới dám mang ra dùng đấy. Gặp được người tri kỷ biết thưởng thức như cháu, thật là quý hóa." Ông lại rót thêm rượu vào chén của tôi và anh An. "Nào, uống thêm chén nữa đi!"
Vậy là, chén rượu thuốc gia truyền đã bất ngờ mở đầu cho một cuộc trò chuyện sôi nổi giữa ba người đàn ông chúng tôi. Ông Minh, người vốn ít nói, giờ đây lại trở nên hoạt bát lạ thường khi nói về niềm đam mê với rượu thuốc. Ông say sưa kể về những kinh nghiệm chọn thảo dược quý trên rừng, về những bí quyết gia truyền trong cách ngâm ủ để rượu vừa thơm ngon lại vừa có tác dụng bồi bổ sức khỏe. Ông còn hào hứng khoe về những loại rượu đặc biệt khác mà ông đang thử nghiệm, như rượu ngâm tắc kè hoa, rượu rắn hổ mang chúa, hay thậm chí là rượu ngâm một loại rễ cây kỳ lạ mà ông tình cờ tìm được trên núi Bạch Mã.
Anh Hoàng An, thấy bố và tôi trò chuyện hợp ý, cũng bắt đầu cởi mở hơn. Anh không nói nhiều về rượu, nhưng lại tỏ ra rất hứng thú khi nghe tôi nhắc đến việc tìm hiểu về các loại gỗ quý trong lúc lang thang tìm hiểu.
"Cậu Hạ nói cũng tìm hiểu về gỗ à?" Anh An hỏi, giọng trầm nhưng ánh mắt có phần tò mò. "Tôi làm thợ mộc mấy chục năm nay, cũng chỉ biết quanh quẩn mấy loại gỗ thường dùng ở quê mình thôi. Gỗ lim, gỗ sến, gỗ táu… Cậu có biết loại gỗ nào vừa bền chắc, lại vừa có vân đẹp, thích hợp để chạm khắc đồ nội thất tinh xảo không?"
Tôi suy nghĩ một lát, lục tìm trong kho kiến thức khá rộng mà tôi tích lũy được từ những ngày tháng đọc sách ở thư viện CUI và trong hành trình vừa qua. "Theo cháu biết thì có gỗ trắc hoặc gỗ cẩm lai vân gỗ rất đẹp và độc đáo, lại cực kỳ bền chắc, thớ gỗ mịn, rất thích hợp để làm đồ mỹ nghệ cao cấp. Hoặc gỗ hương đỏ cũng là một lựa chọn tốt, tuy không cứng bằng nhưng lại có mùi thơm tự nhiên rất dễ chịu, và vân gỗ cũng rất đẹp mắt. Chỉ có điều, những loại gỗ này bây giờ khá hiếm và đắt đỏ."
Anh An gật gù, tỏ vẻ tâm đắc. "Đúng rồi. Mấy loại gỗ đó thì tôi cũng nghe danh đã lâu, nhưng chưa có dịp được tận tay làm bao giờ. Ở đây kiếm đâu ra gỗ quý như vậy." Anh thở dài. "Giờ làm mộc chủ yếu dùng gỗ công nghiệp hoặc gỗ rừng trồng thôi, chất lượng kém xa ngày xưa."
"Vậy anh có biết loại keo dán gỗ nào tốt mà lại thân thiện với môi trường không?" Tôi hỏi ngược lại, nhớ đến mấy món đồ gỗ bị hỏng ở nhà mà bố tôi vẫn hay loay hoay sửa chữa. "Mấy loại keo hóa học bây giờ mùi khó chịu quá."
"À, cái đó thì đơn giản," anh An cười nhẹ. "Nếu cậu muốn loại tự nhiên, thì cứ dùng sơn ta hoặc nhựa thông mà nấu lên. Hơi mất công một chút nhưng đảm bảo chắc chắn, lại an toàn. Ngày xưa các cụ toàn dùng vậy thôi." Anh bắt đầu say sưa giải thích về cách nấu sơn ta, cách pha chế nhựa thông để làm keo dán, những kinh nghiệm quý báu của nghề mộc truyền thống.
Cuộc trò chuyện giữa ba người đàn ông chúng tôi cứ thế kéo dài, xoay quanh đủ thứ chuyện, từ rượu thuốc, gỗ quý, đến những câu chuyện về lịch sử, văn hóa, và cả những nỗi lo toan về cuộc sống hiện tại. Ông Minh và anh An, hai người đàn ông vốn trầm lặng, ít nói, giờ đây lại trở nên hoạt bát, cởi mở lạ thường, có lẽ vì tìm được người “đồng điệu” để sẻ chia những đam mê và trăn trở của mình. Tôi cũng cảm thấy rất vui và thoải mái khi được lắng nghe và chia sẻ cùng họ.
Trong khi đó, ở góc bàn bên kia, mẹ Hoàng Sơn và Phan Hương cũng đang trò chuyện rôm rả. Bà Lan, với sự dịu dàng và gần gũi của một người mẹ, nhanh chóng khiến Phan Hương quên đi sự e dè ban đầu.
"Con gái một mình đi xa như vậy, bố mẹ ở nhà chắc lo lắm phải không con?" Bà Lan ân cần hỏi, gắp thêm miếng chả tôm vào bát Phan Hương.
Phan Hương hơi cúi đầu, giọng có chút ngập ngừng. "Dạ con cũng không rõ nữa ạ." Nỗi buồn về gia đình lại thoáng hiện trong mắt cô bé.
Bà Lan tinh ý nhận ra, liền khẽ nắm lấy tay Phan Hương, vỗ về. "Thôi, chuyện gì không vui thì đừng nghĩ đến nữa. Cứ coi như đây là nhà của con. Ở lại đây chơi với bác vài bữa cho khuây khỏa. Thằng Sơn nhà bác tuy hơi cục tính nhưng được cái tốt bụng lắm, nó sẽ không để ai bắt nạt con đâu." Bà mỉm cười hiền hậu.
"Dạ… con cảm ơn bác." Phan Hương đáp, giọng nghẹn ngào, cảm động trước sự quan tâm ấm áp của bà.
"Con gái xinh đẹp như ri, lại giỏi giang nữa," bà Lan nhìn Phan Hương với ánh mắt trìu mến. "Ở quê chắc nhiều chàng trai theo đuổi lắm hè?" Bà chuyển chủ đề, cố gắng làm không khí vui vẻ hơn.
Phan Hương đỏ mặt, lắc đầu nguầy nguậy. "Dạ… làm gì có đâu ạ…"
Bà Lan cười tủm tỉm, vẻ mặt đầy ẩn ý. "Thôi nào, đừng có giấu bác. Con gái xinh đẹp, ngoan ngoãn như con, lại thêm cái nét lanh lợi thông minh này nữa, bảo không có ai để ý thì bác chịu." Bà nghiêng đầu nhìn mái tóc đỏ rực của Phan Hương, rồi lại nhìn sang chiếc trâm ngọc cài trên đó. "Mà cái trâm cài tóc của con đẹp quá. Ngọc này chắc quý lắm hả?"
Phan Hương bất giác đưa tay lên chạm vào chiếc trâm, gương mặt lại ửng hồng hơn. "Dạ… cái này… là anh Hạ tặng ạ." Cô bé lí nhí đáp, liếc nhanh về phía tôi đang ngồi nói chuyện với bố và anh trai Hoàng Sơn.
"Ồ?" Bà Lan ngạc nhiên, rồi ánh mắt nhìn tôi lại thêm phần thiện cảm. "Thằng bé Hạ này trông thư sinh, ít nói mà cũng tinh ý quá hè. Biết chọn quà tặng con gái đẹp như ri." Bà cười, giọng có chút trêu chọc. "Vậy hai đứa… là…?" Bà bỏ lửng câu hỏi, nhưng ý tứ đã quá rõ ràng.
"Dạ không phải đâu ạ." Phan Hương vội vàng xua tay, mặt đỏ bừng như quả gấc chín. "Bọn con… bọn con chỉ là bạn đồng hành thôi ạ. Anh Hạ coi con như em gái ấy mà."
Bà Lan nhìn vẻ mặt lúng túng, bối rối của Phan Hương thì bật cười. "Rồi rồi, bác hiểu rồi. Chỉ là bạn thôi." Bà nói vậy nhưng ánh mắt vẫn đầy vẻ thích thú. "Mà này, bác thấy khí sắc con dạo này tốt hơn nhiều rồi đó. Thằng Sơn kể lúc mới gặp, trông con yếu lắm, mặt mày xanh xao."
Nghe nhắc đến chuyện cũ, Phan Hương thở dài, vẻ mặt thoáng chút u buồn trở lại. "Dạ… hồi đó con gặp chút chuyện không may, sức khỏe không được tốt lắm. Cũng may nhờ có anh Hạ và anh Sơn giúp đỡ nên mới đỡ hơn nhiều." Cô bé không muốn kể chi tiết về phong ấn hay năng lực của mình, chỉ nói qua loa.
"Vậy là tốt rồi," bà Lan gật gù. "Sức khỏe là vốn quý nhất đó con. Cứ ở lại đây nghỉ ngơi vài bữa cho khỏe hẳn đi đã. Cần gì cứ nói với bác, đừng ngại." Bà nắm lấy tay Phan Hương một lần nữa, giọng đầy vẻ quan tâm.
Cuộc trò chuyện giữa hai người phụ nữ cứ thế tiếp diễn, xoay quanh những chủ đề gần gũi, đời thường. Bà Lan kể về những ngày tháng nuôi dạy hai đứa con trai vất vả, về những lo lắng cho cô con gái út bệnh tật. Phan Hương thì kể về những món ăn ngon, những phong tục tập quán thú vị ở quê nhà phía Bắc của mình. Hai người, một già một trẻ, đến từ hai vùng miền khác nhau, với những hoàn cảnh khác nhau, nhưng lại nhanh chóng tìm thấy sự đồng cảm và chia sẻ.
Trong khi đó, cuộc vui rượu của cánh đàn ông chúng tôi cũng đến hồi cao trào. Bố Hoàng Sơn và anh Hoàng An, hai người vốn kiệm lời, sau vài chén rượu thuốc gia truyền dường như đã cởi bỏ hết lớp vỏ bọc trầm lặng thường ngày, trở nên hoạt bát và nói nhiều hơn hẳn.
Ông Minh, sau khi đã say sưa nói về rượu thuốc, lại chuyển sang kể về những năm tháng làm cán bộ nhà nước đã về hưu, về những trăn trở trước sự đổi thay của xã hội hiện đại. Giọng ông khi thì hào sảng, tự hào, khi lại trầm buồn, tiếc nuối. Ông không còn giữ vẻ nghiêm nghị thường thấy, mà bộc lộ những tâm tư, tình cảm rất đỗi đời thường của một người đã đi qua gần hết cuộc đời.
Anh Hoàng An thì lại khác. Sau vài ly rượu, anh không nói về quá khứ, mà lại say sưa nói về… tương lai. Về những dự định ấp ủ cho xưởng mộc nhỏ của mình, về mong muốn tìm kiếm những loại gỗ quý mới, thử nghiệm những kỹ thuật chạm khắc tinh xảo hơn, và tạo ra những sản phẩm nội thất độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân. Anh nói về niềm đam mê với nghề mộc, về tình yêu với những thớ gỗ, những đường vân, những nét chạm trổ… Ánh mắt anh sáng lên, khác hẳn vẻ trầm lặng thường ngày, như thể rượu đã làm bùng cháy ngọn lửa đam mê vẫn luôn âm ỉ trong lòng anh.
Tôi ngồi đó, lặng lẽ lắng nghe và thỉnh thoảng góp vào vài câu chuyện của riêng mình về những cuốn sách tôi đã đọc, những vùng đất tôi đã đi qua, những suy ngẫm về cuộc sống, về con người. Bầu không khí giữa ba người đàn ông trở nên vô cùng thoải mái và gần gũi, như những người bạn tâm giao đã quen biết từ lâu. Chén rượu thuốc cay nồng không chỉ làm ấm cơ thể, mà dường như còn làm ấm cả tâm hồn, xóa tan đi mọi khoảng cách và sự xa lạ ban đầu.
Bữa cơm tối kéo dài hơn dự kiến, tràn ngập tiếng nói cười và những câu chuyện không đầu không cuối. Chén rượu thuốc cay nồng đã làm ấm lòng cả chủ lẫn khách, xóa tan đi mọi khoảng cách và sự xa lạ ban đầu. Khi đồng hồ quả lắc cổ kính trên tường điểm sang canh khuya, tôi và Phan Hương mới cảm thấy thấm mệt và nhận ra đã đến lúc phải cáo từ.
"Thưa hai bác, cũng đã muộn rồi," tôi đứng dậy, chắp tay chào. "Cháu xin phép đưa Phan Hương về khách sạn nghỉ ngơi trước ạ. Mai chúng cháu sẽ quay lại chào hai bác và cả nhà."
Nghe tôi nói vậy, bà Lan lập tức xua tay phản đối, gương mặt hiền hậu lộ rõ vẻ không hài lòng. "Ối dào, về khách sạn làm chi cho tốn kém lại xa lạ hả cháu? Nhà bác tuy không rộng rãi gì, nhưng thêm hai cái giường gấp thì vẫn thừa chỗ. Hai cháu đã đến đây rồi, coi như là khách quý của gia đình, sao bác để hai cháu ngủ ngoài được?"
Ông Minh cũng gật đầu đồng tình, dù không nói nhiều nhưng ánh mắt ông nhìn chúng tôi đầy vẻ chân thành. "Phải đó Hạ. Cứ ở lại đây cho ấm cúng. Nhà tuy nghèo nhưng tình cảm thì không thiếu."
Hoàng Sơn đang ngồi ngà ngà dựa vào ghế cũng hào hứng xen vào. "Đúng rồi đó huynh! Ở lại đi! Nhà ta tuy chật nhưng vui! Mai ta dẫn hai người đi ăn bún bò giò heo trứ danh xứ Huế luôn!"
Tôi nhìn sang Phan Hương, thấy cô bé cũng có vẻ hơi ngượng ngùng nhưng ánh mắt lại ánh lên sự ấm áp, có lẽ cô cũng cảm nhận được sự chân thành của gia đình Hoàng Sơn. Tôi vốn không phải người thích làm phiền người khác, nhưng nhìn thấy sự nhiệt tình và tình cảm của gia đình họ, từ chối lúc này lại thành ra khách sáo quá.
"Vậy thì… chúng cháu xin làm phiền hai bác và gia đình rồi ạ," tôi khẽ cúi đầu đáp lễ.
"Phiền phức gì đâu!" Bà Lan cười tươi rói, vui vẻ hẳn lên. "Sơn, An, hai đứa dọn dẹp gian phòng áp mái cho cậu Hạ với cô Hương nghỉ ngơi nhé. Nhanh lên!"
Vậy là đêm đó, chúng tôi nghỉ lại tại ngôi nhà nhỏ ấm cúng của gia đình Hoàng Sơn. Gian phòng áp mái tuy đơn sơ nhưng sạch sẽ, ngăn nắp, chăn đệm còn thoang thoảng mùi nắng mới.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy khá sớm theo thói quen tĩnh tọa buổi sớm. Khi tôi bước xuống gian nhà dưới, đã thấy mẹ Hoàng Sơn và Phan Hương đang lúi húi trong bếp chuẩn bị bữa sáng. Mùi xôi nếp thơm lừng và mùi hành phi lan tỏa khắp nhà. Hai người phụ nữ, một già một trẻ, vừa làm vừa trò chuyện gì đó, thỉnh thoảng lại bật cười vui vẻ. Phan Hương trông đã hoàn toàn hòa nhập với không khí gia đình nơi đây, không còn chút e dè nào.
Ngoài khoảng sân nhỏ trước nhà, Hoàng Sơn đang miệt mài tập luyện mấy thế võ cơ bản, tiếng quyền cước xé gió vun vút. Thấy tôi ra, hắn dừng lại, lau mồ hôi, cười toe toét. "Huynh dậy sớm thế! Thấy người khỏe khoắn hẳn ra chưa?"
"Cũng đỡ nhiều rồi," tôi đáp. "Bố và anh An đâu rồi huynh?"
"À, hai người đó đi làm sớm rồi," Hoàng Sơn nói. "Bố ta tuy nghỉ hưu nhưng vẫn hay ra quán cà phê đầu ngõ đánh cờ với mấy ông bạn già. Còn anh An thì đến xưởng mộc từ tinh mơ."
Sau bữa sáng đầm ấm với món xôi vò đậu xanh và chả Huế do chính tay bà Lan làm, tôi mới khẽ hỏi thăm về tình hình của cô em gái út, bé Mai.
"Con bé đỡ nhiều rồi Hạ à," bà Lan nói, ánh mắt ánh lên niềm vui và hy vọng. "Từ ngày có thuốc thằng Sơn gửi về, nó ăn ngủ tốt hơn hẳn, không còn ho nhiều nữa. Bác sĩ bảo cứ đà này thì khả năng hồi phục rất cao. Ơn trời Phật phù hộ, lại cảm ơn hai cháu đã giúp đỡ thằng Sơn nhà bác." Bà nhìn tôi với ánh mắt biết ơn sâu sắc.
Tôi mỉm cười. "Dạ không có gì đâu ạ. Con cũng chỉ giúp được chút ít thôi." Tôi quay sang bà Lan. "Bác ơi, không biết bây giờ có tiện không, cháu có thể vào thăm bé Mai một lát được không ạ?"
"Được chứ, được chứ!" Bà Lan vui vẻ gật đầu. "Con bé cũng muốn gặp ân nhân lắm đó. Để bác dẫn cháu vào."
Bà Lan dẫn tôi vào căn phòng nhỏ nằm cuối nhà. Bé Mai đang ngồi trên giường đọc sách, cô bé gầy hơn so với tưởng tượng của tôi, nhưng gương mặt đã hồng hào hơn, đôi mắt sáng và trong veo. Thấy tôi và mẹ bước vào, cô bé hơi rụt rè cúi đầu chào.
"Chào em, Mai," tôi mỉm cười thân thiện. "Anh là bạn của anh Sơn."
"Em chào anh ạ," bé Mai lí nhí đáp, giọng nói nhỏ nhẹ nhưng trong trẻo.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế nhỏ cạnh giường, quan sát cô bé kỹ hơn. Thiên Nhãn khẽ vận, tôi cảm nhận được luồng sinh khí trong cơ thể cô bé tuy còn yếu nhưng đã ổn định hơn nhiều, không còn sự hỗn loạn do bệnh tật giày vò nữa. Tuy nhiên, vẫn còn một chút dư âm của khí bệnh tích tụ, cần được thanh lọc.
"Anh xem mạch cho em một chút được không?" Tôi nhẹ nhàng hỏi.
Bé Mai hơi ngạc nhiên, nhìn sang mẹ. Bà Lan gật đầu đồng ý. Tôi khẽ đặt ngón tay lên cổ tay nhỏ bé của Mai, nhắm mắt lại, vận chuyển một luồng năng lượng Thiên Nhãn cực kỳ ôn hòa, tinh thuần, từ từ truyền vào cơ thể cô bé. Luồng năng lượng như dòng nước ấm áp, nhẹ nhàng len lỏi qua các kinh mạch, gột rửa đi những tàn dư bệnh khí, điều hòa lại dòng chảy sinh khí bên trong.
Bé Mai khẽ rùng mình một chút khi cảm nhận được luồng khí ấm áp, rồi cô bé nhắm mắt lại, gương mặt giãn ra, trông thư thái hơn hẳn. Quá trình diễn ra chỉ trong vài phút ngắn ngủi. Khi tôi thu tay lại, sắc mặt Mai đã tươi tỉnh hơn thấy rõ.
Đúng lúc đó, bà Lan bưng vào một bát thuốc sắc còn nóng hổi. "Thuốc của con đây Mai. Uống đi cho khỏe nào."
Bà vừa nói, vừa ngạc nhiên nhìn con gái. "Ơ kìa, sao hôm nay trông con tươi tỉnh thế này? Mặt hồng hào hẳn lên?"
"Con cũng không biết nữa mẹ," bé Mai mỉm cười, giọng nói đã khỏe khoắn hơn. "Lúc nãy anh Hạ chạm vào tay con, con thấy trong người dễ chịu lắm."
Bà Lan ngỡ ngàng nhìn tôi, rồi lại nhìn con gái, ánh mắt bà ngập tràn sự vui mừng và biết ơn không nói thành lời. Bà không hỏi gì thêm, chỉ liên tục nói lời cảm ơn.
Tôi biết, chút năng lượng Thiên Nhãn của tôi có lẽ không chữa khỏi hoàn toàn căn bệnh nan y, nhưng nó đã giúp cơ thể cô bé thanh lọc độc tố, tăng cường sức đề kháng, và hỗ trợ quá trình hấp thụ thuốc tốt hơn. Ít nhất, tôi cũng đã làm được một điều gì đó có ý nghĩa.
Sau khi thăm bé Mai, tôi biết đã đến lúc phải rời đi. Tôi tìm gặp Hoàng Sơn và Phan Hương đang nói chuyện ngoài sân.
"Ta nghĩ, chúng ta nên lên đường thôi," tôi nói, giọng có chút lưu luyến.
Hoàng Sơn gật đầu, dù ánh mắt thoáng chút buồn. "Ta biết. Huynh còn hành trình của huynh." Hắn im lặng một lát, rồi nhìn tôi, ánh mắt đầy kiên quyết. "Lý Hạ huynh, Hương, hai người đi đường cẩn thận. Còn ta… ta quyết định rồi. Ta sẽ ở lại đây."
"Ở lại?" Phan Hương ngạc nhiên. "Anh không đi cùng bọn em nữa sao?"
Hoàng Sơn lắc đầu, ánh mắt nhìn về phía gian nhà nơi em gái đang nghỉ ngơi. "Em gái ta cần ta. Bố mẹ ta cũng đã già yếu. Ta không thể bỏ mặc họ mà tiếp tục lang bạt được nữa." Hắn quay sang nhìn tôi. "Xin lỗi huynh, Lý Hạ. Lời hứa tương trợ lúc trước… có lẽ ta phải thất hứa rồi."
Tôi mỉm cười, vỗ vai hắn. "Không sao cả, Sơn huynh. Huynh làm vậy là đúng. Gia đình là trên hết. Hãy ở lại chăm sóc cho bác gái và bé Mai thật tốt." Tôi thành thật nói. "Được đồng hành cùng huynh một đoạn đường, ta đã rất vui rồi."
"Nhưng… huynh và cô Hương đi một mình…" Hoàng Sơn vẫn còn lo lắng.
"Yên tâm," tôi trấn an. "Chúng ta sẽ cẩn thận. Hơn nữa," tôi nhìn sang Phan Hương đang đứng bên cạnh, "không phải chỉ có mình ta. Còn có Hương nữa mà."
Phan Hương cũng gật đầu, mỉm cười quả quyết. "Anh Sơn cứ yên tâm ở lại. Bọn em sẽ tự lo liệu được."
Cuộc chia tay diễn ra nhanh chóng nhưng đầy lưu luyến. Mẹ Hoàng Sơn nước mắt lưng tròng, không muốn để chúng tôi đi. "Hay là hai cháu ở lại thêm vài hôm nữa? Đợi thằng Sơn sắp xếp ổn thỏa rồi hãy đi?"
"Dạ thôi ạ," tôi đáp, lòng cũng có chút bịn rịn. "Nếu ở lại nữa, bọn cháu sợ sẽ không nỡ đi mất." Tôi quay sang bà Lan và Hoàng Sơn. "Phiền hai bác và huynh gửi lời tạm biệt đến bác Minh và anh An giúp cháu. Chúc cả nhà mình luôn mạnh khỏe."
Bà Lan thở dài, biết không thể giữ chúng tôi lại. Bà vội vào nhà, lấy ra một gói quà nhỏ được bọc kỹ bằng lá chuối khô. "Đây là ít mè xửng đặc sản Huế bác mới làm hôm qua. Hai cháu cầm lấy ăn đường cho đỡ buồn miệng."
Tôi và Phan Hương cảm ơn rối rít, nhận lấy món quà quê giản dị nhưng ấm áp tình người.
Hoàng Sơn tiễn chúng tôi ra tận đầu ngõ, hắn bắt tay tôi thật chặt. "Lý Hạ huynh, huynh phải giữ gìn sức khỏe đó! Nhất định phải sống sót trở về!"
"Huynh cũng vậy," tôi đáp. "Chăm sóc tốt cho gia đình."
Rồi hắn quay sang Phan Hương. "Cô Hương cũng vậy nhé! Nhớ luyện tập chăm chỉ! Có ngày ta sẽ vào Nam tìm hai người đó!"
Phan Hương mỉm cười gật đầu. "Anh Sơn ở lại mạnh khỏe."
Chúng tôi quyết định bắt chuyến tàu hỏa đi về phía Đà Nẵng. Không phải vì tôi muốn quay lại chốn cũ ngay lập tức, mà vì thành phố cảng sầm uất đó là một đầu mối thông tin quan trọng. Tôi cần thêm manh mối về "Dự án Chim Ưng", và có lẽ, Lê Vân Khánh là người duy nhất có thể cung cấp điều đó lúc này, dù cái giá phải trả chắc chắn không hề rẻ. Hơn nữa, quay lại Đà Nẵng cũng là một cách đánh lạc hướng bọn "Chim Ưng", khiến chúng khó đoán được hướng đi thực sự của chúng tôi.
Chuyến tàu đêm xuyên qua những tỉnh miền Trung cuối đông đầu xuân, không khí se lạnh len qua khe cửa sổ toa tàu. Bên ngoài, cảnh vật làng quê và phố thị lướt qua mờ ảo dưới ánh đèn đường và ánh trăng non. Phan Hương ngồi cạnh tôi, cô bé không còn vẻ u buồn hay sợ hãi như lúc mới rời khỏi nhà, mà tỏ ra khá hào hứng với chuyến đi.
"Anh Hạ này," Phan Hương quay sang hỏi tôi, đôi mắt lấp lánh dưới ánh đèn yếu ớt của toa tàu. "Anh nói thành phố Đà Nẵng sầm uất lắm phải không ạ? Em chưa đến đó bao giờ. Ở đó có những gì thú vị?"
Tôi mỉm cười nhẹ. "Cũng có nhiều thứ. Cầu Rồng phun lửa, bãi biển đẹp, và nhiều món ăn ngon nữa." Tôi kể qua loa về vài địa điểm du lịch nổi tiếng, cố gắng giữ cho câu chuyện thật bình thường.
"Vậy à? Thích thật!" Phan Hương reo lên khe khẽ. "Nhưng mà… ở đó… có an toàn không anh?" Giọng cô bé lại thoáng chút lo lắng.
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, ánh mắt trầm xuống. "Khó nói lắm, Hương à. Bất cứ nơi nào cũng có thể tiềm ẩn nguy hiểm, dù là thành phố lớn hay núi rừng hoang vu. Quan trọng là chúng ta phải luôn cẩn thận."
"Vâng ạ," Phan Hương gật đầu, vẻ mặt đăm chiêu hơn. Có lẽ cô bé cũng hiểu rằng, hành trình của chúng tôi không đơn thuần chỉ là một chuyến du lịch.
Chúng tôi đến ga Đà Nẵng vào sáng sớm hôm sau. Thành phố cảng đón chúng tôi bằng bầu không khí trong lành hơn sau cơn mưa đêm qua, nhưng vẫn không kém phần náo nhiệt và hối hả. Xe cộ tự hành chạy vun vút trên những cây cầu vượt hiện đại bắc qua sông Hàn. Dòng người đổ ra đường bắt đầu một ngày làm việc mới.
Chúng tôi tìm một quán ăn nhỏ gần ga, gọi hai tô mì Quảng nóng hổi. Mùi nước dùng đậm đà, sợi mì vàng óng, tôm thịt tươi ngon… hương vị quen thuộc của thành phố này lại đánh thức những ký ức về những ngày tháng sống chậm rãi trước đây.
Đang ăn, tôi để ý đến một anh chàng ngồi ở bàn bên cạnh. Anh ta trông khá trẻ, ăn mặc hơi luộm thuộm, tóc tai bù xù, đang loay hoay với chiếc đồng hồ đeo tay kiểu cổ lỗ sĩ. Điều kỳ lạ là, mọi thiết bị điện tử xung quanh anh ta dường như đều hoạt động… chậm lại một cách bất thường. Màn hình quảng cáo trên tường quán ăn thỉnh thoảng lại giật lag, chiếc quạt trần quay lờ đờ dù đã bật số lớn nhất, và thậm chí cả chiếc đồng hồ điện tử treo tường của quán cũng chạy chậm hơn hẳn so với thiết bị liên lạc trên tay tôi.
Tôi khẽ vận Thiên Nhãn. Một luồng năng lượng Dị chủng yếu ớt, màu xám bạc, tỏa ra từ người anh chàng đó, và dường như tập trung mạnh nhất ở chiếc đồng hồ cũ kỹ trên tay anh ta. Luồng năng lượng này không có vẻ nguy hiểm, nhưng lại liên tục phát ra những dao động kỳ lạ, ảnh hưởng đến các thiết bị xung quanh.
Anh chàng kia dường như cũng cảm nhận được ánh mắt của tôi, liền ngẩng đầu lên nhìn, vẻ mặt có chút bối rối và ngượng ngùng. "Chào… chào anh," anh ta lí nhí nói, vội vàng giấu tay đeo đồng hồ xuống gầm bàn. "Anh… nhìn tôi có việc gì không ạ?"
Tôi mỉm cười thân thiện. "Không có gì. Chỉ là thấy cái đồng hồ của anh… trông khá đặc biệt." Tôi nói bóng gió.
Anh chàng nghe vậy, mặt đỏ bừng lên, rồi lại xanh mét đi. "À… cái… cái này…" Anh ta ấp úng, không biết giải thích thế nào.
Phan Hương ngồi bên cạnh cũng tò mò nhìn sang.
"Không cần phải giấu đâu," tôi nói tiếp, giọng nhỏ lại. "Tôi cũng giống anh thôi." Tôi khẽ vận một chút năng lượng Thiên Nhãn ôn hòa, đủ để anh ta cảm nhận được.
Anh chàng sửng sốt nhìn tôi, rồi lại nhìn sang Phan Hương, ánh mắt từ bối rối chuyển sang… mừng rỡ? "Anh… anh cũng là…?"
Tôi gật đầu nhẹ. "Cứ gọi tôi là Hạ. Còn đây là Hương."
"Em… em là Khoa." Anh chàng vội vàng đáp lời, giọng nói đã bớt lắp bắp hơn. "Trần Đình Khoa. Em… em cũng không biết mình bị làm sao nữa. Từ ngày nhặt được cái đồng hồ cũ này ở chợ đồ cổ, mọi thứ xung quanh em cứ chậm rì rì. Đồng hồ báo thức thì toàn kêu muộn, điện thoại thì hay bị treo, đi xe buýt công cộng thì cứ gặp phải xe… chạy chậm nhất tuyến." Khoa than thở, vẻ mặt khổ sở. "Em còn bị sếp đuổi việc vì tội đi làm muộn liên tục nữa chứ!"
Tôi và Phan Hương cố gắng nhịn cười trước tình cảnh dở khóc dở cười của Khoa.
"Cái đồng hồ đó… là Dị Vật đấy," tôi giải thích ngắn gọn. "Nó có khả năng làm chậm thời gian trong một phạm vi nhỏ xung quanh anh."
"Dị… Dị Vật?" Khoa tròn mắt kinh ngạc. "Vậy… vậy em phải làm sao bây giờ? Em vứt nó đi được không?"
Tôi lắc đầu. "Không dễ vậy đâu. Một khi đã liên kết với Dị Vật, việc tách rời không đơn giản, thậm chí có thể nguy hiểm. Huống hồ, năng lực này tuy phiền phức nhưng có lẽ cũng không gây hại đến tính mạng." Tôi suy nghĩ một lát. "Hay là… anh thử tìm cách kiểm soát nó xem sao? Biết đâu lại có lúc hữu dụng?"
"Kiểm soát á?" Khoa nhăn mặt. "Em chỉ muốn vứt quách nó đi thôi!"
Chúng tôi trò chuyện thêm một lúc. Khoa kể rằng cậu ta mới từ quê lên Đà Nẵng tìm việc, đang ở trọ tạm bợ gần khu chợ này. Nghe có vẻ là một người hiền lành, chất phác, chỉ là hơi… xui xẻo khi nhặt phải một Dị Vật oái oăm.
"Thôi, em phải đi tìm việc tiếp đây," Khoa thở dài, đứng dậy. "Cảm ơn hai anh chị đã nói chuyện. Lần đầu tiên em gặp được người… giống mình." Cậu ta chào tạm biệt rồi vội vã rời đi, dáng vẻ vẫn còn chút lóng ngóng, chậm chạp.
Nhìn theo bóng Khoa, Phan Hương khẽ nói: "Anh ấy… trông đáng thương thật."
Tôi gật đầu. Thế giới này đầy rẫy những số phận éo le như vậy. Có những kẻ may mắn sở hữu sức mạnh vô song, có những kẻ lại bị nguyền rủa bởi những năng lực trớ trêu. Quan trọng là cách họ đối mặt và vượt qua nghịch cảnh mà thôi.
Sau bữa sáng và cuộc gặp gỡ tình cờ với Khoa, tôi quyết định cần phải hành động để tìm kiếm thông tin. Tôi dặn dò Phan Hương ở lại nhà nghỉ cẩn thận, tránh ra ngoài một mình, rồi tôi một mình tìm cách liên lạc lại với mạng lưới của Lê Vân Khánh.
Lần này, tôi không dùng ký hiệu ở Vô Ưu Lâu nữa. Tôi tìm đến một khu chợ điện tử cũ kỹ nằm khuất trong một con hẻm nhỏ, nơi mà theo thông tin tôi biết, là một trong những địa điểm giao dịch ngầm của thế giới công nghệ chợ đen. Tôi tìm đến một cửa hàng sửa chữa máy tính cũ nát, đưa cho gã chủ tiệm mặt đầy sẹo một tín hiệu đã được mã hóa mà Lê Vân Khánh cung cấp trước đó. Gã chủ tiệm liếc nhìn tín hiệu, rồi nhìn tôi dò xét, không nói lời nào, chỉ lẳng lặng đưa cho tôi một địa chỉ khác một quán cà phê nhỏ nằm trên tầng thượng của một tòa nhà văn phòng bỏ hoang gần đó, và một mật khẩu đơn giản.
Tôi tìm đến địa chỉ đó. Quán cà phê trông khá tiêu điều, chỉ có vài bộ bàn ghế nhựa cũ kỹ đặt trên sân thượng lộng gió, nhìn xuống khung cảnh thành phố bên dưới. Một người đàn ông mặc áo khoác da đen, đội mũ lưỡi trai che gần hết mặt, đang ngồi một mình ở góc khuất, tay xoay xoay chiếc ly cà phê đã cạn.
Tôi tiến lại gần, đọc mật khẩu. Người đàn ông ngẩng đầu lên, ánh mắt sắc lẻm ẩn dưới vành mũ. Hắn không phải là một kẻ tầm thường. Khí tức Biến Chủng hệ Thể chất khá mạnh mẽ tỏa ra từ người hắn.
"Cần gì?" Hắn hỏi cộc lốc.
"Thông tin. Về 'Dự án Chim Ưng'," tôi đáp thẳng.
Hắn cười khẩy. "Thông tin đó không rẻ đâu."
"Tôi biết," tôi nói, đặt một phần nhỏ số tiền Lê Vân Khánh đưa lên bàn. "Đây là tiền đặt cọc. Phần còn lại sẽ trả sau khi có thông tin."
Hắn liếc nhìn xấp tiền, rồi lại nhìn tôi. "Được thôi. Bà chủ có dặn rồi. Gần đây, 'Chim Ưng' có một hoạt động đáng ngờ ở khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, hình như liên quan đến một cơ sở nghiên cứu bỏ hoang của quân đội cũ gần Quy Nhơn. Nghe nói bọn chúng đang tìm kiếm một 'mẫu vật' đặc biệt ở đó."
"Mẫu vật gì?" Tôi hỏi.
Hắn nhún vai. "Không rõ. Chỉ biết là rất quan trọng. Và nghe nói… không chỉ có 'Chim Ưng' quan tâm đến nó. Vài tay thợ săn Dị Vật tự do và cả người của mấy tổ chức khác cũng đang đánh hơi thấy." Hắn nhìn tôi đầy ẩn ý. "Nếu cậu định đến đó… thì nên cẩn thận. Chỗ đó giờ như một cái tổ ong sắp vỡ rồi đấy."
Cơ sở nghiên cứu bỏ hoang? Mẫu vật đặc biệt? Quy Nhơn? Thông tin này mơ hồ nhưng lại rất đáng chú ý. Đây có thể là manh mối quan trọng để tôi tìm hiểu thêm về "Dự án Chim Ưng", hoặc ít nhất, là một cơ hội để tôi… can thiệp vào kế hoạch của bọn chúng. Nhưng đồng thời, cũng tiềm ẩn nguy hiểm rất lớn.
"Cảm ơn vì thông tin," tôi nói, đứng dậy.
"Khoan đã," tên áo khoác da gọi giật lại. "Bà chủ còn nhắn thêm một câu. Bà ấy nói, nếu cậu giúp bà ấy lấy được cái 'mẫu vật' đó về… thì cái giá sẽ rất hậu hĩnh. Thậm chí… bà ấy có thể giúp cậu tìm cách hóa giải cái phong ấn cho cô bạn gái tóc đỏ của cậu."
Lời đề nghị cuối cùng của Lê Vân Khánh như một mũi tên bắn thẳng vào điểm yếu của tôi. Hóa giải phong ấn cho Phan Hương… Đó là điều tôi đang rất cần. Nhưng… hợp tác với Lê Vân Khánh để đoạt lấy một "mẫu vật" bí ẩn từ tay "Dự án Chim Ưng" và các thế lực khác… Nghe giống như đang tự lao đầu vào chỗ chết.
Tôi quay lại nhìn tên áo khoác da. "Nói với bà chủ của anh… tôi sẽ suy nghĩ."
Rời khỏi quán cà phê trên sân thượng, lòng tôi nặng trĩu những suy tính. Lời đề nghị của Lê Vân Khánh đầy sức cám dỗ, đặc biệt là việc có thể hóa giải phong ấn cho Phan Hương. Nhưng đồng thời, nó cũng tiềm ẩn quá nhiều rủi ro. Một "mẫu vật" quan trọng đến mức cả "Dự án Chim Ưng" lẫn các thế lực khác đều nhòm ngó chắc chắn không phải thứ dễ dàng lấy được. Lao vào một cuộc tranh đoạt như vậy chẳng khác nào tự biến mình thành con thiêu thân.
Tôi quay trở lại nhà nghỉ, kể lại thông tin vừa nhận được cho Phan Hương nghe, bao gồm cả lời đề nghị của Lê Vân Khánh.
"Quy Nhơn sao? Nghe có vẻ… nguy hiểm quá," Phan Hương lo lắng nói, đôi mắt cô bé ánh lên sự sợ hãi nhưng cũng có chút gì đó… hy vọng mong manh khi nghe đến khả năng hóa giải phong ấn. "Nhưng… nếu thực sự có thể…"
Tôi thấy được sự giằng xé trong lòng cô bé. "Ta sẽ không ép cô phải đi đâu cả, Hương à," tôi nói, giọng trấn an. "Hành trình này vốn đã nguy hiểm rồi. Lao vào một nơi như vậy khi chưa chuẩn bị kỹ càng là quá liều lĩnh."
Phan Hương im lặng, cúi đầu suy nghĩ. "Không sao đâu anh Hạ. Em tin anh. Dù có nguy hiểm thế nào, em cũng sẽ đi cùng anh. Hơn nữa," cô bé khẽ mỉm cười, một nụ cười đầy quyết tâm, "em cũng muốn tìm cách giải thoát khỏi cái phong ấn này. Nếu có cơ hội, dù chỉ là một chút, em cũng muốn thử."
Tôi nhìn thấy sự trưởng thành và dũng cảm trong đôi mắt cô bé. Có lẽ, những thử thách vừa qua đã thực sự tôi luyện ý chí của Phan Hương. "Được rồi," tôi gật đầu. "Nhưng chúng ta sẽ không hành động một mình. Ta cần thêm thông tin, và có lẽ… cần thêm sự chuẩn bị."
Tôi quyết định trì hoãn việc đến Quy Nhơn ngay lập tức. Thay vào đó, chúng tôi tiếp tục hành trình về phía Nam một cách cẩn trọng hơn, men theo vùng duyên hải, vừa để tránh sự chú ý, vừa để tìm kiếm thêm thông tin và rèn luyện bản thân. Chúng tôi sẽ đi qua Bình Định trước, xem xét tình hình, và có thể tìm cách thu thập thêm tin tức về cơ sở nghiên cứu bỏ hoang kia từ các nguồn địa phương hoặc các đầu mối chợ đen nhỏ lẻ khác trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
Vậy là, hành trình lại tiếp tục. Chúng tôi rời Đà Nẵng, đón xe khách đi về phía Nam, hướng đến vùng đất Bình Định nơi nổi tiếng với những bãi biển hoang sơ, những tháp Chăm cổ kính, và đặc biệt là cái nôi của võ thuật cổ truyền Việt Nam.
Trên đường đi, tôi dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn Phan Hương cách điều hòa năng lượng Hỏa hệ và cả cách đối phó với sự xung đột từ phong ấn. Tôi chia sẻ với cô những gì mình đã học được từ Kỳ đạo Âm Dương không phải cố gắng đàn áp hay loại bỏ hoàn toàn luồng khí âm hàn, mà là học cách cảm nhận nó, hiểu quy luật hoạt động của nó, và tìm cách tạo ra một sự cân bằng tạm thời, dù là mong manh, giữa nó và năng lượng Hỏa hệ.
Phan Hương tỏ ra cực kỳ thông minh và nhạy bén. Cô bé tiếp thu rất nhanh những nguyên tắc tôi đưa ra, và tự mình mày mò, thử nghiệm các phương pháp khác nhau. Dù vẫn còn gặp nhiều khó khăn và đau đớn, nhưng rõ ràng cô đã bắt đầu kiểm soát năng lượng của mình tốt hơn, và những cơn bùng phát mất kiểm soát đã thưa dần đi đáng kể.
Rời khỏi những bãi biển đầy nắng và gió của vùng duyên hải, tôi và Phan Hương tiến vào địa phận Bình Định, vùng đất nổi tiếng với tinh thần thượng võ và những di tích lịch sử Chămpa cổ kính. Không khí nơi đây dường như có chút gì đó khác biệt, mạnh mẽ và trầm lắng hơn. Người dân nơi đây, dù cuộc sống vẫn còn những khó khăn, nhưng trong ánh mắt họ luôn ánh lên một sự kiên cường, rắn rỏi.
Chúng tôi quyết định không dừng lại ở thành phố Quy Nhơn ồn ào, mà tìm đến một thị trấn nhỏ hơn nằm sâu trong nội địa, gần với khu vực có nhiều võ đường cổ và di tích tháp Chăm nơi mà theo những lời đồn đại tôi nghe được, đôi khi vẫn xảy ra những chuyện dị thường không thể giải thích.
Chúng tôi thuê trọ tại một nhà nghỉ đơn sơ cuối con đường nhỏ dẫn vào một làng quê yên bình. Chủ nhà là một người đàn ông trung niên ít nói, gương mặt khắc khổ nhưng ánh mắt lại hiền lành. Gian nhà không lớn, nhưng sạch sẽ, và có một khoảng sân rộng phía sau nhìn ra cánh đồng, rất thích hợp để chúng tôi luyện tập vào buổi sớm.
Những ngày đầu ở Bình Định, tôi và Phan Hương dành thời gian thăm thú các di tích trong vùng. Chúng tôi đến thăm cụm Tháp Đôi cổ kính giữa lòng thành phố, ngắm nhìn kiến trúc Chămpa độc đáo với những đường nét hoa văn tinh xảo, cảm nhận dòng chảy năng lượng cổ xưa vẫn còn vương vấn nơi đây. Chúng tôi tìm đến bảo tàng Quang Trung, nơi lưu giữ những hiện vật hào hùng về phong trào Tây Sơn và người anh hùng áo vải cờ đào, lòng không khỏi dâng lên niềm tự hào dân tộc.
"Đất võ Bình Định, quả nhiên danh bất hư truyền," Phan Hương trầm trồ khi chúng tôi đứng trước bảo tàng. "Nhìn những binh khí, những chiến bào này, em có thể cảm nhận được khí thế hừng hực của cha ông ta ngày xưa."
"Đúng vậy," tôi gật đầu. "Nhưng nơi có lịch sử hào hùng, cũng thường ẩn chứa những câu chuyện bi tráng, và đôi khi… là những chấp niệm chưa tan." Thiên Nhãn của tôi khẽ cảm nhận được những luồng năng lượng bất ổn yếu ớt quanh khu vực di tích này.
Một buổi chiều, khi đang đi dạo qua khu vực có một võ đường cổ khá nổi tiếng, chúng tôi nghe thấy tiếng la hét, chửi bới và tiếng đổ vỡ vọng ra từ bên trong. Một đám đông hiếu kỳ đã tụ tập trước cổng võ đường, chỉ trỏ, bàn tán xôn xao.
"Lại là lão điên đó đấy! Khổ thân mấy đứa nhỏ học võ!" Một người phụ nữ bán hàng nước ven đường lắc đầu nói.
"Lão nào cơ ạ?" Tôi tò mò hỏi.
"Thì lão võ sư Chấn đó!" Người phụ nữ đáp. "Ngày xưa lão ấy nổi tiếng khắp vùng này, võ công cao cường, tính tình hào sảng. Mà không hiểu sao mấy năm nay lão trở nên quái đản, hung dữ lạ thường. Cứ dăm bữa nửa tháng lại lên cơn điên, đập phá đồ đạc, đánh đuổi hết cả học trò."
"Nghe nói là lão bị 'nhập' đó cậu ơi," một ông già ngồi bên cạnh chen vào. "Từ hồi lão nhặt được cái gì đó trên núi về là bắt đầu đổi tính đổi nết."
Nhặt được cái gì đó trên núi? Tôi và Phan Hương liếc nhìn nhau, trong lòng cùng có một suy nghĩ. Lại là Dị Vật?
"Chúng ta vào xem thử không anh?" Phan Hương khẽ hỏi, ánh mắt cô bé có chút tò mò xen lẫn e dè.
Tôi suy nghĩ một lát. Một võ sư nổi tiếng bỗng dưng đổi tính, trở nên hung bạo sau khi nhặt được đồ vật lạ… Rất có khả năng đây là trường hợp Dị chủng bị tha hóa do ảnh hưởng của Dị Vật. Nếu để tình trạng này kéo dài, lão võ sư có thể gây nguy hiểm cho những người xung quanh.
"Đi thôi," tôi quyết định. "Nhưng cẩn thận một chút."
Chúng tôi lách qua đám đông hiếu kỳ, bước vào khoảng sân rộng lớn của võ đường. Khung cảnh bên trong khá hỗn loạn. Đồ đạc tập luyện như côn, kiếm gỗ, bao cát… văng tung tóe. Vài chậu cây cảnh bị đổ vỡ. Và giữa sân, một người đàn ông trung niên, thân hình vẫn còn cường tráng dù tóc đã điểm bạc, đang đứng thở hổn hển, đôi mắt đỏ ngầu, ánh lên vẻ điên cuồng, hung dữ. Khắp người ông ta tỏa ra một luồng năng lượng mạnh mẽ nhưng vô cùng bất ổn, hỗn loạn, và mang theo sát khí rõ rệt. Thực lực của ông ta có lẽ đã đạt đến ngưỡng Cấp B, nhưng rõ ràng đang bị thứ gì đó chi phối.
Xung quanh ông ta, vài thanh niên trẻ tuổi mặc võ phục, có lẽ là học trò cũ, đang đứng xa xa, vẻ mặt vừa sợ hãi vừa bất lực, không dám lại gần.
"Sư phụ. Người bình tĩnh lại đi. Đừng như vậy nữa." Một thanh niên cố gắng gọi lớn.
"Bình tĩnh? Các ngươi bảo ta bình tĩnh thế nào?" Lão võ sư gầm lên, giọng khàn đặc. "Sức mạnh. Đây mới là sức mạnh thực sự. Lũ yếu đuối các ngươi thì biết cái gì." Ông ta vung tay, một luồng kình lực vô hình đánh bật tung mấy chiếc ghế gỗ gần đó.
Tôi và Phan Hương đứng ở rìa sân quan sát. Thiên Nhãn của tôi quét nhanh qua người lão võ sư. Bên cạnh luồng năng lượng võ học thuần túy nhưng đang bị xáo trộn, tôi cảm nhận rõ ràng một luồng năng lượng Dị Vật khác, màu đen pha đỏ, đang quấn chặt lấy tâm trí và đan điền của ông ta, như một loài dây leo độc ác đang hút lấy sinh khí và điều khiển ý chí. Nguồn gốc của luồng năng lượng đó dường như phát ra từ… một chiếc đai lưng bằng da màu đen, trông khá cũ kỹ, mà ông ta đang đeo. Đó có lẽ là Dị Vật đã tha hóa ông ấy.
"Các ngươi cút hết đi. Đừng cản đường ta!" Lão võ sư lại gầm lên, đôi mắt đỏ ngầu quét về phía đám học trò. Rồi ánh mắt ông ta dừng lại ở tôi và Phan Hương, hai kẻ lạ mặt đang đứng quan sát. "Các ngươi là ai? Đến đây làm gì?" Sát khí từ người ông ta tỏa ra nồng đậm hơn.
Tình hình có vẻ không thể giải quyết bằng lời nói.
"Để em thử nói chuyện với ông ấy xem sao," Phan Hương đột nhiên lên tiếng, cô bé bước lên trước một bước, ánh mắt nhìn lão võ sư không hề sợ hãi, mà lại có chút gì đó… đồng cảm? "Bác ơi, cháu thấy bác có vẻ đang rất đau khổ. Có phải có thứ gì đó đang giày vò bác không?" Giọng cô bé nhẹ nhàng, trong trẻo, mang theo một sự chân thành kỳ lạ.
Lão võ sư khựng lại một chút trước giọng nói và thái độ bất ngờ của Phan Hương. Sự điên cuồng trong mắt ông ta dường như dịu đi đôi chút, thay vào đó là một nỗi đau khổ thoáng qua. "Đau khổ? Ngươi… ngươi biết gì mà nói?" Ông ta lẩm bẩm, giọng nói có chút run rẩy.
"Cháu không biết chính xác," Phan Hương tiếp tục, chậm rãi tiến lại gần hơn một chút. "Nhưng cháu có thể cảm nhận được sự xung đột bên trong bác. Giống như… bác đang phải chiến đấu với chính bản thân mình." Cô bé khẽ vận năng lượng tạo ra một quầng sáng ấm áp, dịu nhẹ bao quanh bàn tay mình. "Có lẽ… cháu có thể giúp bác?"
Hành động của Phan Hương khá liều lĩnh, nhưng lại bất ngờ có hiệu quả. Lão võ sư nhìn vào quầng sáng ấm áp trên tay Phan Hương, đôi mắt đỏ ngầu của ông ta dao động mạnh mẽ.
Nhưng đúng lúc đó, chiếc đai lưng màu đen trên người ông ta đột nhiên lóe lên ánh sáng đỏ tà dị. Một luồng năng lượng hắc ám mạnh mẽ hơn bùng phát, nuốt chửng lại chút ý thức còn sót lại của lão võ sư.
"Gràooooo!!!" Ông ta gầm lên một tiếng man dại, đôi mắt lại trở nên điên cuồng, còn hung tợn hơn trước. "Ả phù thủy nhỏ. Dám dùng yêu thuật mê hoặc ta. Chết đi!"
Lão võ sư lao thẳng về phía Phan Hương, tốc độ nhanh như chớp, bàn tay biến thành trảo, chụp thẳng vào cổ cô bé.
"Hương, cẩn thận!" Tôi hét lên, đồng thời lao tới. Nhưng lão võ sư quá nhanh, khoảng cách lại quá gần.
Phan Hương cũng không kịp phản ứng, chỉ kịp theo bản năng giơ tay lên đỡ.
Trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc ấy…
Rầm!
Một bức tường lửa màu đỏ sẫm đột nhiên bùng lên từ người Phan Hương, không phải ngọn lửa ấm áp lúc nãy, mà là ngọn lửa mang theo sức mạnh hủy diệt, đẩy bật lão võ sư ra xa. Nhưng đồng thời, Phan Hương cũng hét lên một tiếng đau đớn, ôm chặt lấy ngực, ngọn lửa trên người cô lại bắt đầu trở nên hỗn loạn. Phong ấn và năng lực lại xung đột dữ dội do cảm xúc bị kích động mạnh.
Tôi lao đến bên cạnh Phan Hương, một tay đỡ lấy cô, tay kia nhanh chóng vận Hắc Ảnh tạo thành khiên chắn trước mặt lão võ sư đang lồm cồm bò dậy, ánh mắt càng thêm điên loạn.
Phiền phức thật, tôi thầm nghĩ. Xem ra vẫn phải động thủ rồi.
"Phan Hương, cố gắng điều hòa lại năng lượng." tôi nói nhanh với cô bé. "Ở yên đây."
Lão võ sư không chờ thêm một nhịp thở nào. Như dã thú nổi cơn điên, ông ta bật dậy, lao vọt về phía tôi như một mũi tên đen.
Tôi giơ tay, Hắc Ảnh hóa thành khiên chắn.
Ầm!
Cú đấm đập trúng mặt khiên, lực đạo như búa tạ. Làn sóng xung kích nổ tung, gạch dưới chân vỡ thành bụi. Tôi trượt lùi nửa bước, cả cánh tay run lên vì dư chấn.
Nhanh. Mạnh. Cực kỳ chuẩn xác.
Không phải một kẻ điên loạn đó là bản năng của một bậc thầy đã quen với giết chóc.
“Ra là ông vẫn chưa hoàn toàn mất lý trí.” Tôi thở ra, buông tay khỏi Phan Hương. “Tốt. Vậy ta không cần nương tay.”
Lão võ sư gầm lên, áp sát bằng một bộ pháp quái dị: ba bước thẳng, hai bước chéo, rồi xoay hông tung cước.
Tôi nghiêng người né, nhưng chân trái ông ta đã đánh vòng lên giả bộ làm mất thăng bằng, nhưng thực chất là móc gối ngược vào bụng tôi từ một góc khuất.
Tôi chặn lại bằng khuỷu tay, xoay người bật lên một vòng:
Thiên Nhãn mở. Từng cơ bắp, từng đường gân dưới da đối thủ hiện ra như bản đồ chiến trận.
Cơ bắp vai trái vừa siết lại. Sắp có đòn đấm từ dưới lên.
Tôi trượt xuống, lách ra sau lưng ông ta trong một nửa nhịp thở, tay trái khẽ lướt qua bóng mình.
Hắc Ảnh: Trảo!
Một bóng đen bật lên như móng vuốt quỷ, từ dưới đất trồi lên, chộp lấy mắt cá chân ông ta. Nhưng lão phản ứng còn nhanh hơn tôi dự đoán ông ta vặn gót, đạp xuống, dùng chính sức mạnh để bẻ gãy bóng tối.
Lần đầu tiên, tôi cau mày thật sự.
"Lý trí mất rồi, nhưng bản năng vẫn là một con quái vật…"
Không thể đánh càn. Tôi cần tạo sơ hở.
Tôi bật lùi, vẽ nhanh một ấn chú bằng chân lên nền đất:
Ảnh ấn phản chiếu: Tàn ảnh phân thân.
Bốn chiếc bóng lao ra tứ phía. Lão võ sư gầm lên, đấm tan một cái nhưng đó là cái tôi muốn.
Tôi đã ở sau lưng ông ta, đầu gối bật lên đập thẳng vào sống lưng.
Ngay khoảnh khắc va chạm, tôi thì thầm:
“Thứ này không có trong võ đạo đâu, thưa sư phụ.”
Ầm!
Tiếng va chạm vang như sấm nổ giữa đêm đen. Lưng ông ta cong lại. Ông ta quật ngược khuỷu tay về phía tôi, chính xác như thể có mắt phía sau lưng.
Tôi xoay nghiêng, lùi lại nửa bước. Một giọt mồ hôi lạnh rơi xuống gạch vỡ. Căng thật.
Tôi nhắm mắt lại. Một giây thôi.
Thiên Nhãn: Dự kiến phản xạ.
Một nhịp hô hấp, một cú nghiêng vai, một cái trượt bước. Tôi đã thấy trước toàn bộ phản ứng của ông ta trong mười giây tiếp theo.
Tôi mở mắt, lao vào. Không còn né. Chỉ còn tiến.
Mỗi đòn tôi tung ra là một câu hỏi. Mỗi phản ứng của ông ta là một câu trả lời.
Và tôi chỉ cần một câu... sai.
Tôi bật người lao tới, Hắc Ảnh tràn từ dưới chân như sóng đen, tạo thành một nhát quạt chém ngang bụng đối phương.
Lão võ sư khẽ nghiêng người, chỉ một động tác đơn giản như đang vén áo, mà cả dòng bóng tối chệch đi chỉ trong gang tấc.
Tôi nhíu mày, tăng tốc, lướt vòng qua vai lão, tay trái chụp lấy không khí.
Thiên Nhãn ‘Trường Áp Lực’
Không gian ngay sau lưng đối phương đột ngột nén chặt, như một bức tường vô hình ép vào xương sống.
Tôi tung gối chính diện.
Nhưng ngay khoảnh khắc đầu gối tôi sắp chạm ngực ông ta, thân thể lão võ sư nghiêng một góc lạ thường. Vai lún xuống, chân trượt đi, ông ta nhập thân vào khe hở giữa chiêu thức, rồi dùng một đòn chỏ bật vào xương sườn tôi.
Bộp!
Cơn đau nổ rền trong ngực. Tôi bật lùi, khụ một tiếng. Máu rịn nơi khóe môi.
“Không tệ,” lão võ sư bật cười, giọng khàn đặc. “Mày điều khiển không gian, dự báo hành động… Nhưng chiến đấu không phải là trò giải đố.”
Ông ta bước tới, không nhanh, không chậm. Nhưng mỗi bước như đẩy áp lực vô hình tới gần.
“Chiêu số thì sắc sảo. Nhưng thân thể mày vẫn mềm yếu.”
Tôi siết nắm tay, hít sâu.
Thiên Nhãn ‘Dịch chuyển điểm tức thời.’
Không gian dưới chân méo đi, toàn thân tôi biến mất, rồi xuất hiện lại ngay trên đầu ông ta.
Tôi xoay tròn trên không, Hắc Ảnh biến thành dây xích, cuốn thẳng xuống như búa trời.
Nhưng đúng lúc ấy, ông ta ngửa đầu. Một cú hất cằm trúng vào mép dây. Chỉ một chuyển động tưởng như đơn giản, nhưng khiến toàn bộ thế công của tôi lệch hẳn hướng.
Bị đọc vị? Không, ông ta phản xạ theo bản năng!
Tôi nghiến răng, xoay người giữa không trung, hai tay bắt ấn:
“Hắc Ảnh Trảm!”
Tia bóng đen như lưỡi hái lao xuống. Nhưng lão võ sư đã co người, xoay hông Toàn bộ đòn đánh xé gió mà không chạm trúng dù chỉ một sợi tóc.
“Phản xạ tốt đấy,” ông ta nói, bàn chân tung lên, móc thẳng vào ngực tôi.
Tôi văng ngược, đập lưng vào cột trụ đá phía sau. Mắt hoa lên một thoáng. Tim lỡ một nhịp.
Không ổn. Cơ thể đang dần không theo kịp.
Tôi hít sâu, điều chỉnh hô hấp. Máu vẫn rịn nơi tay.
“Chẳng lẽ ông nghĩ võ thuật có thể đánh bại tất cả sao?”
Lão võ sư nhếch môi. “Không. Nhưng chỉ cần đánh bại mày, là đủ.”
Câu nói vừa dứt, ông ta lao đến lần nữa.
Tôi vận Thiên Nhãn cực đại, môi lẩm nhẩm: ‘Trường. Hấp. Đẩy. Nén’.
Ba tầng áp lực chồng vào nhau, tạo thành một vòng tròn chết chóc bao lấy ông ta. Không gian rung lên, gạch dưới chân vỡ nát thành bụi.
Nhưng ông ta không dừng lại. Thân thể lách vào vùng áp lực như nước chảy qua khe đá.
“Ngươi chỉ nhìn được nước cờ,” ông ta nói, nắm đấm rít gió. “Còn ta là người chơi cả bàn cờ.”
Tôi nghiến răng, vung chưởng nghênh chiến.
Hắc Ảnh: Toái Thể.
Đòn va chạm, cả hai cùng trượt lùi. Nhưng tôi là người rướm máu.
Ông ta nhìn tôi, ánh mắt như sắt nung đỏ: “Nói đi… Đầu óc mày còn đang chạy mấy nước chiêu nữa? Hay đã tính đến đường chết?”
Tôi thở gấp, ánh mắt nhắm lại đúng một nhịp.
“Không có gì… là hoàn hảo mãi mãi.”
Tôi gục xuống một gối, hơi thở đứt đoạn. Một bên mắt đã mờ. Cánh tay trái gần như tê liệt.
Không gian quanh tôi méo mó, Hắc Ảnh rối loạn, áp lực tôi tạo ra cũng bắt đầu phản ngược lại chính mình.
Lão võ sư bước tới, không vội, không nhanh. Ánh mắt như đang nhìn một xác chết vẫn cố giãy.
“Không dùng được nữa rồi, phải không?” Ông ta cúi người, tay phải giơ lên cao, nắm chặt.
“Để ta ban cho mày một kết thúc xứng đáng.”
Chỉ một chiêu nữa thôi tôi chết.
Thiên Nhãn vẫn mở. Nhưng chẳng còn gì để thấy. Tương lai trước mắt là cái chết tuyệt đối, không có phân nhánh, không có hy vọng.
Tôi ngẩng lên. Máu từ khóe miệng chảy xuống.
“Đúng,” tôi thì thầm. “Tôi không né được chiêu này…”
Bàn tay ông ta siết chặt hơn. Cơ bắp căng lên. Áp lực vặn xoắn không khí.
“…nhưng ông cũng không thể dừng lại được nữa.”
Ánh mắt ông ta hơi dao động.
Chính giây đó, tôi đặt tay lên nền đá.
Thiên Nhãn ‘Định vị: Không gian đối ứng.’
Tôi khóa tọa độ tạo phản chấn khi không gian bị xé toạc.
Tôi đánh cược toàn bộ năng lượng còn lại, mở một lối nhỏ phía sau.
Lão võ sư không dừng lại. Ông ta lao tới.
Tôi không né.
Nắm đấm xuyên qua Hắc Ảnh, đập thẳng vào ngực tôi.
ẦM!!!
Xương kêu răng rắc, máu phun ngược. Tôi bay ngược vào vùng không gian phản chấn chính mình tạo ra.Ngay khoảnh khắc thân thể tôi chạm vào điểm giao giữa không gian bị bóp méo và áp lực của lối thoát, tôi siết chặt tay, mắt sáng lên:
Thiên Nhãn ‘ Khai Không: Giảo Phong Trận’
Từ mép không gian bật ra hàng chục sợi xích Hắc Ảnh, luồn qua mọi khe hở trong tư thế đối phương, khóa chặt từ tứ chi đến đường kinh mạch. Lão võ sư lập tức phản ứng, vung chưởng phá xích, nhưng chỉ chậm đúng một nhịp.
Tôi búng ngón tay.
Thiên Nhãn ‘Dẫn Thức: Tách Dị Tâm’
Toàn bộ Hắc Ảnh quanh thân lão võ sư không tấn công, mà *hóa thành vô số đường ấn tối mờ, bám lấy các điểm huyệt nơi thân thể ông, luồn vào huyết mạch, lần theo khí tức tà dị đang ký sinh.
“Cái gì?” Ông ta gầm lên, nhưng thân thể co giật dữ dội. Đôi mắt đỏ lòe dao động, hắc quang bùng lên như chống cự. Dị vật ẩn dưới lớp da đang quẫy đạp, như con quái vật sắp bị lôi khỏi ổ.
Tôi siết tay lại, Hắc Ảnh tụ thành một ấn chú cuối cùng, in thẳng vào giữa ngực đối phương.
“Ra khỏi ông ấy!”
ẦM!!
Một tiếng rít kinh hoàng vang lên. Một mảng hắc khí bắn khỏi thân thể lão võ sư, hình dạng vặn vẹo, mang bóng dáng một sinh linh sâu độc. Nó gào lên, định bỏ chạy, nhưng không gian xung quanh đã bị khóa.
Tôi không nói thêm lời nào. Một đường ánh sáng đỏ rực ngọn lửa của Phan Hương từ xa lao đến, thiêu đốt dị vật thành tro bụi.
Lão võ sư Chấn đổ gục xuống nền gạch vỡ vụn, toàn thân run rẩy, mồ hôi túa ra như tắm. Ngọn lửa đỏ rực điên cuồng trong đôi mắt đã tắt lịm, trả lại vẻ đen nâu từng trải nhưng giờ đây lại ngập tràn sự ngỡ ngàng và mệt mỏi cùng cực. Ông thở hổn hển, đưa mắt nhìn quanh khoảng sân tan hoang của võ đường, rồi nhìn xuống đôi bàn tay mình, như thể không tin vào những gì vừa xảy ra.
Tôi quỳ một gối trên mặt đất, cố gắng điều hòa lại hơi thở gấp gáp. Mắt trái vẫn còn mờ đi vì căng sức Thiên Nhãn, cánh tay phải nơi vận dụng Hắc Ảnh vẫn run lên từng hồi vì kiệt sức. Máu từ khóe miệng và vết thương trên ngực vẫn rỉ ra, vị tanh nồng quen thuộc.
"Chưa đến lúc ông chết đâu," tôi nói, giọng khàn khàn vì mệt mỏi, cố gắng đứng dậy, bước loạng choạng về phía lão võ sư. "Vẫn còn học trò đang chờ ông dạy… phải không?"
Phan Hương vội vàng chạy đến đỡ lấy tôi, gương mặt cô bé tái nhợt vì lo lắng. "Anh Hạ. Anh bị thương nặng quá!"
Tôi lắc đầu nhẹ. "Không sao. Chỉ là… hơi mất sức thôi." Tôi nhìn lão võ sư vẫn đang ngồi thất thần dưới đất. "Ông thấy trong người thế nào rồi, Chấn sư phụ?" Tôi cố tình gọi một cách tôn trọng, hy vọng có thể xoa dịu đi phần nào sự hoang mang của ông.
Lão võ sư ngẩng đầu lên nhìn tôi, ánh mắt ông giờ đây không còn vẻ điên cuồng nữa. "Cậu… cậu vừa…" Ông lắp bắp, dường như vẫn chưa thể tin rằng mình đã thoát khỏi sự khống chế của thứ tà vật kia.
Đúng lúc đó, đám học trò trẻ tuổi, những người đã sợ hãi đứng nhìn từ xa nãy giờ, mới dám chạy lại.
"Sư phụ. Người tỉnh rồi. Người không sao chứ?" Một thanh niên mặt mày khôi ngô, có lẽ là đại đệ tử, mừng rỡ kêu lên, vội vàng đỡ lão võ sư dậy.
"Ta… ta không sao…" Lão Chấn lẩm bẩm, ánh mắt vẫn nhìn tôi không chớp. "Là cậu trai trẻ này… đã cứu ta."
Đám học trò lúc này mới chú ý đến tôi và Phan Hương, những kẻ lạ mặt đã đột ngột xuất hiện và đánh bại sư phụ của họ trong cơn điên loạn. Ánh mắt họ nhìn chúng tôi đầy vẻ tò mò, kính nể, và cả chút ái ngại khi thấy bộ dạng thương tích của tôi.
"Vị huynh đài đây…" Người đại đệ tử tiến lên, chắp tay hành lễ với tôi. "Tại hạ là Minh, đại đệ tử của Chấn Phong Võ Đường. Đa tạ huynh đài đã ra tay nghĩa hiệp, cứu giúp sư phụ chúng tôi thoát khỏi tà ma khống chế. Ơn này, võ đường chúng tôi xin khắc cốt ghi tâm."
Tôi cũng chắp tay đáp lễ. "Tại hạ là Lý Hạ, chỉ là tiện tay tương trợ thôi. Không dám nhận lời cảm tạ." Tôi nhìn lão võ sư Chấn. "Chấn sư phụ tuổi đã cao, lại vừa trải qua một phen kinh biến, cần được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Các vị mau đưa sư phụ vào trong nghỉ ngơi đi."
"Phải phải," Minh gật đầu lia lịa. "Huynh đài nói phải. Mời sư phụ vào nhà nghỉ ngơi ạ." Cậu ta cùng vài đệ tử khác cẩn thận dìu lão võ sư Chấn vào gian nhà chính của võ đường.
Trước khi đi, lão Chấn quay lại nhìn tôi một lần nữa, ánh mắt phức tạp. "Cậu Hạ… xin cậu nán lại một chút. Lão có chuyện muốn thỉnh giáo."
Tôi khẽ gật đầu đồng ý. Tôi cũng có nhiều điều muốn hỏi ông ấy về chiếc đai lưng Dị Vật kia.
Đám đông hiếu kỳ bên ngoài võ đường, thấy sự việc có vẻ đã kết thúc, cũng dần tản đi, mang theo những lời bàn tán xôn xao về cuộc chiến kỳ lạ vừa rồi. Chỉ còn lại tôi và Phan Hương đứng giữa khoảng sân tan hoang.
"Anh… anh thực sự không sao chứ?" Phan Hương lại lo lắng hỏi, đưa tay khẽ chạm vào vết thương trên ngực tôi.
"Không sao thật mà," tôi mỉm cười trấn an cô. "Chỉ là vết thương ngoài da thôi." Tôi nhìn vết rách trên áo. "Có lẽ… lại phải phiền cô giúp ta khâu vá rồi."
Phan Hương bật cười nhẹ, không khí căng thẳng dường như cũng dịu đi phần nào.
Chúng tôi được mời vào gian nhà khách của võ đường. Nơi đây bài trí đơn sơ nhưng trang nghiêm, đậm chất võ học cổ truyền, với những bức hoành phi câu đối chữ Hán, giá binh khí treo đủ loại trường côn, đoản kiếm, và mùi hương trầm thoang thoảng.
Sau khi đã được các đệ tử chăm sóc, thay một bộ võ phục sạch sẽ, lão võ sư Chấn trông đã tỉnh táo và bình tĩnh hơn nhiều. Ông ngồi đối diện chúng tôi, tự tay pha một ấm trà Thiết Quan Âm nóng hổi, hương thơm lan tỏa.
"Để hai vị chê cười rồi," lão Chấn thở dài, giọng nói vẫn còn chút mệt mỏi. "Lão già này tu hành mấy chục năm, không ngờ cuối đời lại bị tà vật khống chế, suýt nữa gây ra đại họa." Ông chắp tay về phía tôi. "Hôm nay, nếu không có cậu Hạ ra tay nghĩa hiệp, hậu quả thật không dám tưởng tượng. Xin nhận của lão một lạy tạ ơn này." Ông định đứng dậy vái lạy, nhưng tôi vội vàng ngăn lại.
"Sư phụ đừng làm vậy, con không dám nhận." Tôi nói. "Chỉ là trùng hợp con đi ngang qua, thấy chuyện bất bình nên không thể làm ngơ thôi ạ."
Lão Chấn ngồi xuống, ánh mắt nhìn tôi đầy vẻ cảm kích xen lẫn tò mò. "Cậu Hạ tuổi còn trẻ mà đã có tu vi thâm hậu như vậy, lại sở hữu cả hai luồng khí tức chính tà đối nghịch mà vẫn giữ được tâm tính quang minh. Thực sự là kỳ tài hiếm có." Ông nhìn sang Phan Hương. "Vị cô nương đây cũng không phải tầm thường, ngọn lửa kia ẩn chứa uy lực kinh người."
"Cháu là Phan Hương," cô bé lễ phép đáp. "Chỉ là chút năng lực phòng thân thôi ạ."
"Hai vị không cần khiêm tốn," lão Chấn nói. "Lão tuy già cả mắt mờ, nhưng cũng từng lăn lộn giang hồ, tiếp xúc không ít kỳ nhân dị sĩ. Khí tức và thực lực của hai vị, lão nhìn qua là biết không phải dạng vừa đâu." Ông rót trà mời chúng tôi.
Nếu hai vị không chê nơi này đơn sơ, cứ nghỉ lại đây vài hôm. Để lão có cơ hội báo đáp ơn cứu mạng, và cũng là để cậu Hạ dưỡng thương." Ông nhìn vết thương trên ngực tôi, ánh mắt có chút áy náy. "Lần này, thực sự là lão đã làm khó cậu rồi."
"Chút thương tích này không đáng kể đâu ạ," tôi xua tay. "Chỉ cần sư phụ không còn bị tà vật khống chế là tốt rồi." Tôi nhìn vào chiếc đai lưng bằng da màu đen cũ kỹ đang được đặt trên bàn trà. "Không biết… cái vật kia…"
Lão Chấn nhìn theo ánh mắt tôi, thở dài. "Là nó đó. Cội nguồn của mọi tai họa." Ông cầm chiếc đai lưng lên, ánh mắt phức tạp. "Cách đây gần một năm, lão lên núi làm lễ tế tổ nghề võ. Tình cờ trong một hang đá nhỏ, lão nhặt được chiếc đai lưng này. Thấy nó làm bằng da thú lạ, lại có vẻ cổ xưa, nên lão tò mò mang về."
Ông kể tiếp: "Ban đầu đeo vào cũng không thấy gì khác thường, chỉ cảm thấy cơ thể khỏe khoắn hơn, tinh thần minh mẫn hơn, luyện võ cũng thấy tiến bộ nhanh chóng. Lão cứ ngỡ mình gặp được kỳ duyên, nhặt được bảo vật. Nhưng rồi… dần dần, lão cảm thấy tính tình mình thay đổi. Dễ nổi nóng hơn, hung bạo hơn, đôi khi còn mất kiểm soát, nói những lời không hay, làm những việc không phải."
"Rồi những cơn điên loạn bắt đầu xuất hiện," giọng lão Chấn trầm xuống, mang theo nỗi sợ hãi và xấu hổ. "Khi đó, lão gần như mất hết lý trí, chỉ muốn đập phá, chỉ muốn hủy diệt mọi thứ. Sát khí trong người bùng lên không thể kiểm soát. Lão biết mình có vấn đề, nhưng không thể nào tự mình thoát ra được. Cứ như có một con quỷ dữ đang ngự trị trong đầu, sai khiến lão." Ông siết chặt chiếc đai lưng. "Nó vừa ban cho lão sức mạnh, lại vừa từ từ ăn mòn tâm trí lão, biến lão thành một con thú hoang."
Câu chuyện của lão võ sư khiến tôi và Phan Hương không khỏi rùng mình. Lại một Dị Vật mang theo sức mạnh và lời nguyền khủng khiếp. Không giống mầm rễ ký sinh của Hoàng Sơn hay phong ấn của Phan Hương, Dị Vật này tác động trực tiếp lên tâm trí, tha hóa bản ngã của người sở hữu.
"Cảm ơn cậu Hạ đã giúp lão thoát khỏi sự khống chế của nó," lão Chấn nói, giọng đầy biết ơn. "Nếu không có cậu, lão không biết mình sẽ còn gây ra những tội lỗi gì nữa." Ông đặt chiếc đai lưng lên bàn. "Vật tà ác này, lão không dám giữ bên mình nữa. Cậu Hạ, cậu có tu vi cao thâm, có thể khắc chế được nó. Hay là… cậu nhận lấy nó, tùy ý xử lý?"
Tôi nhìn chiếc đai lưng da màu đen, cảm nhận luồng năng lượng hắc ám vẫn còn âm ỉ bên trong nó, dù đã yếu đi nhiều sau khi bị tách khỏi vật chủ. Thiên Nhãn của tôi "nhìn" thấy những đường vân năng lượng màu đỏ máu li ti ẩn hiện trên bề mặt da, như những mạch máu đang co giật yếu ớt. Bên trong nó, dường như ẩn chứa một thứ linh tính tà ác, đầy oán niệm và ham muốn hủy diệt.
"Con không dám nhận vật này đâu ạ," tôi nói với lão Chấn. "Năng lượng của nó quá tà dị, e rằng con không đủ sức để hoàn toàn chế ngự. Hơn nữa," tôi nhìn chiếc đai lưng, "có lẽ nó vẫn còn hữu dụng theo cách khác."
"Hữu dụng?" Lão Chấn ngạc nhiên.
"Thưa sư phụ," tôi nói, "Con có một người bạn làm việc trong lĩnh vực mua bán, trao đổi những vật phẩm đặc biệt như thế này. Có lẽ, cô ấy sẽ hứng thú với nó, và có thể đưa ra một cái giá tốt." Tôi nghĩ đến Lê Vân Khánh. Chiếc đai lưng này, dù nguy hiểm, nhưng chắc chắn có giá trị không nhỏ trên chợ đen. Bán nó đi vừa giúp tôi có thêm chi phí, vừa loại bỏ được một mối nguy tiềm ẩn, lại vừa có thể "trả công" cho Lê Vân Khánh vì những thông tin cô ta đã cung cấp. Một mũi tên trúng ba đích.
"Vậy à?" Lão Chấn có vẻ hơi bất ngờ, nhưng rồi cũng gật đầu. "Nếu vậy thì tùy cậu Hạ quyết định. Lão tin tưởng cậu." Ông đẩy chiếc đai lưng về phía tôi. "Coi như lão tặng nó cho cậu, để cảm ơn ơn cứu mạng."
Tôi cũng không khách sáo nữa, nhận lấy chiếc đai lưng, cẩn thận dùng một mảnh vải sạch gói nó lại, cất vào trong ba lô.
Nhận lấy chiếc đai lưng, cẩn thận gói lại và cất vào ba lô, rồi tôi nhìn lão võ sư Chấn, thấy sắc mặt ông đã hồng hào hơn, ánh mắt cũng đã lấy lại được vẻ tinh anh của một bậc thầy võ học, không còn sự điên loạn hay mệt mỏi nữa.
"Chấn sư phụ, bây giờ ông cảm thấy trong người thế nào rồi ạ?" Tôi ân cần hỏi thăm. "Liệu có còn cảm thấy khó chịu hay ảnh hưởng gì từ tà vật kia không?"
Lão Chấn lắc đầu, nở một nụ cười nhẹ nhõm. "Nhờ ơn cậu Hạ, lão cảm thấy trong người nhẹ nhàng hơn bao giờ hết. Đầu óc cũng tỉnh táo, minh mẫn lạ thường. Bao nhiêu năm bị nó khống chế, dày vò, cứ ngỡ mình đã hóa điên thật rồi. Nay được giải thoát, thực sự như được tái sinh." Ông chắp tay lại lần nữa. "Đại ân này, Chấn Phong Võ Đường chúng tôi không biết lấy gì báo đáp."
"Sư phụ đừng nói vậy," tôi đáp. "Chuyện đã qua rồi. Quan trọng là người đã bình an." Tôi nhìn quanh gian nhà khách trang nghiêm nhưng có phần cũ kỹ. "Võ đường của sư phụ có vẻ rất lâu đời rồi nhỉ? Chắc hẳn có rất nhiều môn sinh theo học?" Tôi bắt đầu lân la hỏi chuyện, vừa để tìm hiểu thêm về nơi này, vừa để lão võ sư có cơ hội trải lòng, quên đi chuyện không vui vừa qua.
Nghe tôi hỏi về võ đường, ánh mắt lão Chấn ánh lên niềm tự hào. "Ha ha, cậu Hạ tinh ý thật. Chấn Phong Võ Đường này do tổ phụ của lão sáng lập từ đầu thế kỷ trước cơ. Trải qua bao nhiêu thăng trầm, đặc biệt là những năm tháng chiến tranh loạn lạc, võ đường vẫn đứng vững, góp phần đào tạo nên không ít người tài cho đất võ Bình Định này."
"Vậy chắc hẳn Chấn Phong Võ Đường rất có tiếng tăm ở đây ạ?" Phan Hương cũng tò mò hỏi.
"Cũng không dám nhận là quá nổi tiếng," lão Chấn khiêm tốn đáp, nhưng nụ cười trên môi lại không giấu được niềm tự hào. "Nhưng dòng họ Chấn chúng tôi mấy đời nay đều theo nghiệp võ, lại có chút tiếng nói trong vùng. Thời chiến tranh WWIV ấy, đệ tử của võ đường cũng tham gia chiến đấu bảo vệ quê hương, lập được không ít chiến công. Sau chiến tranh, nhiều người cũng trở thành trụ cột trong các cơ quan địa phương hoặc lực lượng vũ trang." Ông dừng lại, giọng trầm xuống một chút. "Thế nên, tuy võ đường chỉ là một tổ chức dân sự, nhưng chính quyền và cả cảnh sát địa phương cũng nể trọng vài phần. Có chuyện gì xảy ra, họ cũng thường tham khảo ý kiến hoặc nhờ võ đường hỗ trợ."
Tôi thầm gật gù. Ra vậy. Chấn Phong Võ Đường không chỉ là một võ đường đơn thuần, mà còn là một thế gia có lịch sử lâu đời và tầm ảnh hưởng không nhỏ tại địa phương. Điều này giải thích tại sao hành động của lão võ sư trong cơn điên loạn lại gây xôn xao nhưng dường như chưa bị can thiệp mạnh mẽ từ chính quyền. Họ nể mặt, hoặc có lẽ… cũng có chút e ngại trước thực lực của võ đường.
"Vậy… các đệ tử của võ đường chắc hẳn ai cũng có võ công cao cường?" Phan Hương hỏi tiếp, ánh mắt có chút ngưỡng mộ.
Lão Chấn cười lớn. "Cao cường thì không dám nhận, nhưng được cái chăm chỉ luyện tập. Võ học Bình Định thì nhiều môn phái lắm, mỗi nhà một bí quyết. Võ đường chúng tôi chủ yếu luyện tập theo dòng võ cổ truyền Tây Sơn, chú trọng cả nội công lẫn ngoại công, vừa mạnh mẽ, quyết liệt, lại vừa linh hoạt, biến ảo." Ông say sưa kể về các bài quyền, bài côn, bài kiếm gia truyền của võ đường, về những nguyên tắc cơ bản của võ học, về đạo đức của người học võ.
"Người học võ," ông nhấn mạnh, "không chỉ rèn luyện sức khỏe, thân pháp, mà quan trọng hơn là rèn luyện cái tâm. Võ đức phải đi trước võ công. Dùng võ để bảo vệ mình, bảo vệ người yếu thế, bảo vệ lẽ phải, chứ không phải để ức hiếp, gây hấn, hay tranh đoạt hư danh." Ông khẽ thở dài. "Chỉ tiếc là… lão già này lại có lúc không giữ được tâm mình, bị tà vật lợi dụng."
"Đó không phải lỗi của sư phụ," tôi nói. "Tà vật kia quá xảo quyệt, lại tác động trực tiếp vào tâm trí, người thường khó lòng chống đỡ. May mắn là người đã giữ vững được chút bản tâm cuối cùng, nếu không hậu quả còn khôn lường hơn nữa."
Lão Chấn gật đầu, ánh mắt nhìn tôi đầy vẻ cảm kích. "Cậu Hạ nói phải. Cũng may là hôm nay có duyên gặp được hai vị." Ông lại rót trà cho chúng tôi. "Mà nói chuyện nãy giờ, lão vẫn chưa biết rõ lai lịch của hai vị. Hai vị chắc chắn không phải người tầm thường. Không biết hai vị… thuộc môn phái nào, hay là đệ tử của vị cao nhân nào?" Ông hỏi, giọng đầy vẻ tò mò nhưng vẫn giữ sự tôn trọng.
Tôi và Phan Hương liếc nhìn nhau. Câu hỏi này khá nhạy cảm.
"Chúng cháu…" tôi ngập ngừng một chút, quyết định chỉ nói một phần sự thật. "Chỉ là những tán tu may mắn gặp được chút kỳ duyên thôi ạ. Không thuộc môn phái nào cả. Hiện tại đang trên đường vân du thiên hạ, vừa để rèn luyện bản thân, vừa để tìm hiểu thêm về thế giới rộng lớn này."
"Tán tu vân du sao?" Lão Chấn có vẻ hơi ngạc nhiên, rồi lại gật gù. "Thời buổi này, vẫn còn người trẻ tuổi như hai vị giữ được chí hướng đó, thật đáng quý. Giang hồ hiểm ác, thế giới siêu nhiên lại càng phức tạp khôn lường. Hai vị đi đường chắc hẳn gặp không ít khó khăn?"
"Cũng có chút ạ," tôi đáp, nhớ lại cuộc phục kích vừa rồi. "Nhưng cũng nhờ vậy mà học hỏi thêm được nhiều điều."
"Vậy hai vị định đi đâu tiếp theo?" Lão Chấn hỏi.
"Chúng cháu dự định vào Nam ạ," Phan Hương đáp.
"Vào Nam à?" Lão Chấn trầm ngâm. "Miền Nam tuy đất rộng người đông, kinh tế phát triển, nhưng cũng là nơi Long Xà hỗn tạp, các thế lực ngầm hoạt động mạnh mẽ hơn ngoài này nhiều đó. Hai vị đi đường phải hết sức cẩn thận." Ông dặn dò với vẻ mặt lo lắng chân thành.
Cuộc trò chuyện giữa ba người chúng tôi cứ thế tiếp diễn, xoay quanh đủ thứ chuyện, từ võ học, lịch sử, đến những lời đồn đại về thế giới siêu nhiên, về các loại Dị Vật, Biến Chủng mà lão Chấn từng nghe qua hoặc đối mặt trong những năm tháng lăn lộn của mình. Ông kể về một lần giao đấu với một Dị Chủng có khả năng biến hình thành mãnh hổ, về một lần tìm thấy một thanh cổ kiếm tỏa ra hàn khí lạnh lẽo trong một ngôi mộ cổ… Những câu chuyện của ông, tuy có phần ly kỳ, nhưng lại giúp tôi có thêm cái nhìn thực tế hơn về thế giới mà mình đang bước vào.
Khi trời đã tối hẳn, cuộc trò chuyện mới tạm dừng lại. Lão Chấn có vẻ rất tâm đắc khi tìm được người trẻ tuổi am hiểu và có cùng mối quan tâm như tôi. Ông giữ chúng tôi ở lại dùng bữa cơm tối thân mật.
"Minh!" Lão Chấn gọi lớn về phía sân sau. "Bảo nhà bếp làm một mâm cơm thịnh soạn đãi hai vị khách quý cho ta!"
Người đại đệ tử tên Minh vội vàng chạy vào, cung kính đáp lời rồi lui ra chuẩn bị. Không lâu sau, một mâm cơm đầy ắp những món ăn đặc sản Bình Định được bày ra: nem chợ Huyện giòn thơm, bánh hỏi cháo lòng nóng hổi, gà nướng lu óng ả, canh khổ qua rừng nấu cá lóc thanh mát…
"Nào, mời hai vị dùng bữa tự nhiên," lão Chấn hồ hởi mời. "Rượu thì lão không dám mời nữa, sợ lại có chuyện không hay." Ông cười hề hề. "Chúng ta dùng trà thay rượu vậy."
Ông liên tục gắp thức ăn cho tôi và Phan Hương, giới thiệu về từng món ăn đặc sản, về cách chế biến cầu kỳ, và cả những câu chuyện thú vị xoay quanh nguồn gốc của chúng.
"Món nem chợ Huyện này á," ông hào hứng chỉ vào đĩa nem nhỏ xinh, được cuốn khéo léo bằng lá chuối tươi. "Phải chọn loại thịt heo ngon nhất, xay nhuyễn cùng bì heo thái sợi, nêm nếm gia vị gia truyền, rồi gói bằng lá ổi non trước khi bọc lá chuối bên ngoài. Để qua một đêm cho nem lên men chua dịu mới đem ra nướng trên than hồng. Ăn miếng nem giòn thơm, chua chua ngọt ngọt, lại thêm vị chát nhẹ của lá ổi, chấm với nước mắm tỏi ớt thì hết sảy!"
Phan Hương gật gù thích thú, cô bé thử một miếng nem rồi tấm tắc khen ngon. "Đúng là ngon thật đó bác ạ! Ở ngoài Bắc Ninh quê cháu không có món nào giống thế này."
"Ha ha, mỗi vùng một hương vị mà cháu," lão Chấn cười lớn. "Hay như món bánh hỏi cháo lòng này. Nhìn thì đơn giản vậy thôi, nhưng để làm được sợi bánh hỏi trắng trong, mềm dẻo, không bị nát, ăn kèm với lòng heo luộc vừa tới, chấm nước mắm chua ngọt có thêm chút hẹ thái nhỏ… cũng cần có bí quyết cả đấy."
Ông lại say sưa kể về cách chọn gạo, cách xay bột, cách ép bánh, cách luộc lòng sao cho vừa chín tới, không bị dai… Sự am hiểu về ẩm thực của ông cũng không hề thua kém kiến thức võ học. Xem ra, người Bình Định không chỉ giỏi võ mà còn rất sành ăn.
Người đại đệ tử tên Minh và vài đệ tử thân tín khác cũng được gọi vào cùng ngồi ăn cơm. Họ ban đầu còn hơi e dè trước mặt sư phụ và hai vị khách lạ, nhưng thấy không khí vui vẻ, lại thêm tính cách hòa đồng của Phan Hương, họ cũng dần cởi mở hơn, tham gia vào câu chuyện.
Minh, chàng thanh niên khôi ngô lúc nãy, tỏ ra rất kính trọng tôi. "Lý huynh," cậu ta nâng chén trà lên. "Lúc nãy ở sân, thực sự là tại hạ thất lễ, không nhìn ra được huynh là cao nhân. Xin kính huynh một chén trà tạ lỗi."
Tôi mỉm cười nâng chén đáp lại. "Minh huynh quá lời rồi. Tại hạ cũng chỉ là may mắn thôi. Võ công của các vị đây mới thực sự đáng nể."
"Không dám, không dám," Minh xua tay. "Bọn tại hạ tu luyện bao năm cũng không bằng một góc của huynh. Đặc biệt là cái thân pháp lúc nãy, quả thực là xuất quỷ nhập thần."
"Với lại," một đệ tử khác chen vào, "Cái chiêu cuối cùng huynh dùng để tách cái thứ tà ma kia ra khỏi người sư phụ ấy… quả thực là ảo diệu vô cùng! Bọn tại hạ chưa từng thấy bao giờ."
Lão Chấn nghe đệ tử nhắc lại thì cũng gật gù, ánh mắt nhìn tôi đầy vẻ thán phục. "Đúng vậy. Cái cách cậu Hạ vận dụng cả hai luồng khí tức đối nghịch, dùng chính bóng tối để đối phó với tà ma, thực sự là khiến lão mở rộng tầm mắt. Đó… có phải là một loại công pháp đặc biệt nào đó không, cậu Hạ?" Ông tò mò hỏi.
Tôi khẽ lắc đầu. "Không hẳn là công pháp gì cao siêu đâu ạ. Chỉ là… chút lĩnh ngộ tình cờ về đạo lý cân bằng Âm Dương trong lúc tu luyện thôi." Tôi không muốn giải thích quá sâu về Kỳ đạo Âm Dương, cũng không muốn để lộ quá nhiều về bản chất thực sự của Thiên Nhãn và Hắc Ảnh. "Có lẽ do cơ duyên đặc biệt nên tiểu sinh mới có thể làm được như vậy."
Lão Chấn và các đệ tử nghe vậy thì càng thêm phần kính nể, cho rằng tôi là người có đại căn duyên, ngộ tính phi thường.
Bữa cơm cứ thế tiếp diễn trong tiếng cười nói vui vẻ, những câu chuyện về võ học, về lịch sử, về những món ăn ngon, và cả những lời đồn đại ly kỳ về thế giới siêu nhiên.
Sáng hôm sau, khi ánh nắng vàng ấm áp của đất Bình Định bắt đầu xuyên qua khung cửa sổ gỗ, chiếu lên sàn nhà sạch bóng, tôi và Phan Hương đã thu dọn xong hành lý ít ỏi, chuẩn bị lên đường tiếp tục hành trình về phương Nam.
Lão võ sư Chấn, người đại đệ tử Minh, và vài môn sinh thân tín khác đã đứng chờ sẵn ở khoảng sân rộng trước võ đường để tiễn chúng tôi. Lão Chấn, sau một đêm nghỉ ngơi, trông đã hoàn toàn khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, khí sắc hồng hào, ánh mắt đã lấy lại được vẻ tinh anh, uy nghiêm của một bậc thầy võ học.
"Hai vị đã quyết định đi ngay sao?" Lão Chấn hỏi, giọng có chút tiếc nuối. "Sao không ở lại thêm vài hôm nữa? Để lão có cơ hội chỉ điểm thêm cho cậu Hạ vài đường quyền cước, hoặc giới thiệu hai vị thăm thú thêm vài danh thắng của đất Bình Định này?"
Tôi mỉm cười, chắp tay đáp lễ. "Đa tạ hảo ý của sư phụ. Chỉ là hành trình của chúng con còn dài, không dám làm phiền quý võ đường thêm nữa. Ân tình tương trợ và sự đón tiếp nồng hậu này, chúng con xin khắc cốt ghi tâm."
Phan Hương cũng lễ phép cúi đầu. "Cháu cảm ơn sư phụ và các anh rất nhiều ạ. Mấy ngày ở đây thật sự rất vui và ấm áp."
Lão Chấn thở dài, biết không thể giữ chúng tôi lại lâu hơn. Ông trầm ngâm một lát, rồi lấy từ trong người ra một miếng ngọc bội nhỏ bằng hổ phách, màu vàng nâu óng ánh, được chạm khắc tinh xảo hình một con mãnh hổ đang vươn mình gầm thét biểu tượng của Chấn Phong Võ Đường.
"Cậu Hạ," lão Chấn trịnh trọng đưa miếng ngọc bội cho tôi. "Đây là tín vật của Chấn Phong Võ Đường chúng tôi. Lão xin tặng nó cho cậu, coi như một chút lòng thành cảm tạ ơn cứu mạng, và cũng là một vật kỷ niệm cho lần gặp gỡ hữu duyên này." Ông nhìn tôi, ánh mắt chân thành. "Sau này, nếu cậu có dịp quay lại Bình Định, hoặc nếu trên đường giang hồ có gặp phải khó khăn gì cần đến sự giúp đỡ, cứ mang tín vật này đến bất kỳ chi nhánh nào của võ đường chúng tôi, hoặc tìm đến những người từng là môn hạ của Chấn Phong, họ nhất định sẽ xem cậu như thượng khách mà hết lòng tương trợ."
Tôi hơi ngạc nhiên trước món quà quý giá này. Tín vật của cả một võ đường lớn, mang theo không chỉ giá trị vật chất mà còn cả uy tín và sự bảo trợ của một thế gia võ học có tiếng tăm. Đây thực sự là một ân tình quá lớn.
"Sư phụ, cái này… quá quý giá rồi, con không dám nhận đâu ạ," tôi vội xua tay từ chối.
"Cậu cứ nhận lấy đi," lão Chấn kiên quyết. "Ơn cứu mạng sư môn, một miếng ngọc bội này có đáng là bao. Hơn nữa, lão thấy cậu là người trọng tình trọng nghĩa, căn cơ lại phi phàm, tương lai chắc chắn sẽ làm nên nghiệp lớn. Kết giao với người như cậu, là phúc phận của Chấn Phong Võ Đường chúng tôi." Ông đặt miếng ngọc bội vào tay tôi. "Cứ coi như… đây là một lời hẹn ước cho ngày tái ngộ vậy."
Thấy sự chân thành và kiên quyết của lão võ sư, tôi cũng không tiện từ chối thêm nữa. Tôi cẩn thận nhận lấy miếng ngọc bội hổ phách, cảm nhận hơi ấm và luồng năng lượng chính trực, mạnh mẽ tỏa ra từ nó. "Vậy… con xin đa tạ tấm lòng của sư phụ và quý võ đường." Tôi cúi đầu thành kính.
Cuộc chia tay diễn ra trong không khí bịn rịn, lưu luyến. Minh và các đệ tử khác cũng lần lượt đến bắt tay, chào tạm biệt chúng tôi, ánh mắt họ đầy vẻ kính nể và ngưỡng mộ.
"Lý huynh, Phan Hương cô nương, hai vị đi đường bảo trọng." Minh nói, giọng chân thành. "Hẹn có ngày tái ngộ!"
"Các vị cũng vậy," tôi đáp lễ. "Hãy chăm chỉ luyện tập, kế thừa tinh hoa võ học của sư môn."
Chúng tôi chào tạm biệt mọi người lần cuối, rồi quay người cất bước rời khỏi Chấn Phong Võ Đường. Ngoảnh đầu nhìn lại, vẫn thấy lão võ sư và các đệ tử đứng đó dõi theo, bóng dáng họ nhỏ dần rồi khuất dạng sau cánh cổng gỗ uy nghi.
Rời khỏi thị trấn nhỏ yên bình, chúng tôi tìm đường ra quốc lộ, tiếp tục hành trình về phía Nam. Chuyến đi qua Bình Định, dù ngắn ngủi và gặp phải chút sóng gió ban đầu, nhưng lại mang đến những trải nghiệm quý báu. Tôi không chỉ có cơ hội thực hành và lĩnh ngộ sâu hơn về Kỳ đạo Âm Dương qua trận chiến với lão võ sư Chấn, mà còn kết được một mối thiện duyên bất ngờ với một thế gia võ học có thực lực và uy tín. Miếng ngọc bội hổ phách trong túi áo như một lời nhắc nhở về lòng nghĩa hiệp, về sự tương trợ giữa người với người trong cái thế giới đầy rẫy hiểm nguy này.
Hành trình tiếp tục đưa chúng tôi vào địa phận tỉnh Phú Yên, vùng đất nổi tiếng với những ghềnh đá đĩa kỳ thú và những bãi biển hoang sơ trải dài tít tắp. Khung cảnh nơi đây mang một vẻ đẹp bình yên, mộc mạc hơn so với sự cổ kính của Huế hay nét hiện đại của Đà Nẵng. Những làng chài nhỏ bé nép mình bên bờ biển, những cánh đồng muối trắng lấp lóa dưới ánh nắng chói chang, và những con đường đất nhỏ quanh co dẫn vào những xóm làng yên ả.
Để tránh đi theo quốc lộ ồn ào và cũng để có thêm những trải nghiệm đời thường, chúng tôi quyết định rẽ vào một con đường ven biển nhỏ hơn, đi qua những làng chài hẻo lánh. Chiếc xe khách địa phương cũ kỹ đưa chúng tôi đi qua những đoạn đường quanh co, một bên là biển xanh sóng vỗ rì rào, một bên là những đồi cát vàng óng hoặc những cánh rừng phi lao xanh mướt.
Khi trời gần tối, chúng tôi dừng chân tại một làng chài nhỏ, nằm nép mình trong một vịnh biển khá kín gió. Làng không lớn lắm, chỉ có vài chục nóc nhà tranh và nhà gỗ đơn sơ nằm san sát nhau dọc bờ biển. Thuyền bè đánh cá lớn nhỏ đủ loại đang neo đậu im lìm trên bãi cát hoặc dập dềnh trên mặt nước biển lặng sóng. Không khí ở đây yên bình đến lạ thường, chỉ có tiếng sóng vỗ bờ, tiếng gió biển vi vu qua hàng phi lao, và tiếng trẻ con nô đùa trên bãi cát.
Chúng tôi tìm một quán ăn nhỏ duy nhất trong làng, thực chất chỉ là một mái hiên che tạm trước nhà của một gia đình ngư dân, kê vài bộ bàn ghế nhựa cũ kỹ. Chủ quán là một người phụ nữ trung niên, nước da rám nắng, gương mặt hiền lành, đang ngồi vá lưới trước hiên. Thấy chúng tôi là khách lạ, chị hơi ngạc nhiên nhưng vẫn niềm nở đón tiếp.
"Hai cô cậu tìm chi đó?" Chị hỏi, giọng miền biển chân chất.
"Dạ, bọn cháu đi lỡ đường, muốn tìm chỗ nào ăn tối và nghỉ lại qua đêm ạ," tôi đáp. "Ở đây có nhà nghỉ nào không chị?"
Chị chủ quán cười hiền. "Ở cái làng chài ni thì làm chi có nhà nghỉ sang trọng như trên phố. Nhưng nếu hai cô cậu không chê, thì cứ nghỉ tạm lại nhà tôi một đêm cũng được. Nhà tuy chật nhưng còn dư một gian phòng nhỏ phía sau."
Tôi và Phan Hương nhìn nhau, có chút bất ngờ trước sự nhiệt tình và hiếu khách của người dân nơi đây. "Vậy thì… làm phiền chị quá rồi ạ," Phan Hương lễ phép đáp.
"Có chi đâu mà phiền," chị xua tay. "Khách đến nhà là quý rồi. Hai cô cậu ngồi đợi chút, tôi nấu cho bữa cơm tối đơn giản nhé. Toàn hải sản mới đánh bắt về chiều nay đó, tươi ngon lắm!"
Bữa cơm tối được dọn ra trên chiếc bàn tre ngoài hiên, dưới ánh đèn dầu leo lét và ánh trăng sao lấp lánh trên bầu trời đêm không một gợn mây. Chỉ có vài món đơn giản: tô canh chua cá mú nấu với lá giang thơm lừng, đĩa mực hấp gừng sả trắng nõn, giòn ngọt, và đĩa cá nục kho keo đậm đà ăn cùng cơm trắng nóng hổi. Những món ăn dân dã, không cầu kỳ, nhưng lại mang trọn hương vị tươi ngon của biển cả và sự chân chất của người dân nơi đây.
Bữa cơm tối được dọn ra trên chiếc bàn tre ngoài hiên, dưới ánh đèn dầu leo lét và ánh trăng sao lấp lánh trên bầu trời đêm không một gợn mây. Chỉ có vài món đơn giản: tô canh chua cá mú nấu với lá giang thơm lừng, đĩa mực hấp gừng sả trắng nõn, giòn ngọt, và đĩa cá nục kho keo đậm đà ăn cùng cơm trắng nóng hổi. Những món ăn dân dã, không cầu kỳ, nhưng lại mang trọn hương vị tươi ngon của biển cả và sự chân chất của người dân nơi đây.
Chồng chị chủ quán, một người đàn ông ngư dân vạm vỡ, ít nói, tên là Hai Lẫm, cũng ngồi ăn cùng chúng tôi sau một ngày đi biển vất vả. Da anh đen sạm vì nắng gió, bàn tay thô ráp chai sạn vì kéo lưới, nhưng ánh mắt lại hiền lành, chất phác. Bên cạnh anh chị là hai đứa con nhỏ, một trai một gái, tầm bảy tám tuổi, đang líu lo kể chuyện đi học, chuyện chơi đùa trên bãi biển. Thằng bé trai tên Tý, trông lém lỉnh, hoạt bát. Con bé gái tên Sửu, có phần nhút nhát hơn anh trai, đôi mắt to tròn đen láy. Không khí bữa cơm gia đình đầm ấm, khiến chúng tôi, những kẻ lữ hành xa lạ, cảm thấy thật thoải mái và gần gũi.
"Hai cháu ăn tự nhiên đi nghen, đừng ngại," chị chủ quán, tên Thắm, niềm nở nói, tay gắp thêm miếng cá nục kho vào bát tôi. "Ở đây không có sơn hào hải vị chi, chỉ có chút cá tôm tươi rói của nhà thôi."
"Dạ, ngon lắm chị ạ," Phan Hương mỉm cười đáp, cô bé có vẻ rất thích món canh chua cá mú. "Nước canh chua thanh, ngọt vị cá, lại thơm mùi lá giang nữa."
"Hihi, lá giang này là chị mới hái sau vườn đó," chị Thắm cười tươi. "Ở đây cái gì cũng tự trồng tự kiếm hết cháu ạ. Rau thì trồng sau vườn, cá tôm thì anh Hai nhà chị đi biển bắt về. Cuộc sống tuy không dư dả nhưng cũng đủ ăn đủ mặc."
"Anh Hai đi biển vất vả lắm phải không anh?" Tôi quay sang hỏi anh Hai Lẫm, người từ nãy đến giờ chủ yếu chỉ im lặng ăn cơm.
Anh Hai Lẫm ngẩng lên, gật đầu, giọng trầm và ít nói. "Cũng quen rồi cậu. Nghề biển mà. Ngày nào may thì được nhiều, ngày nào xui thì về tay không, có khi còn gặp sóng to gió lớn nữa." Anh thở dài. "Như dạo này đây, biển động thất thường lắm, lại thêm cái vụ lưới cứ bị ai phá rối suốt, đi về chẳng được bao nhiêu."
"Lưới bị phá rối sao ạ?" Phan Hương tò mò hỏi.
"Ừ," chị Thắm chen vào, giọng có chút than thở. "Dạo này không hiểu sao, lưới đánh cá của mấy nhà trong làng cứ tự dưng bị thắt nút lung tung hết cả lên. Để qua đêm trên thuyền, sáng ra gỡ muốn chết luôn!"
"Ba nói đúng đó cô," thằng bé Tý nhanh nhảu góp chuyện, miệng vẫn còn nhai cơm. "Hôm qua thuyền nhà chú Tư hàng xóm còn bị đẩy ra xa bờ nữa cơ. Chú ấy phải bơi theo kéo về mệt muốn xỉu luôn!"
"Cái thằng ni, người lớn nói chuyện con nít xen vào," chị Thắm véo nhẹ tai con trai, nhưng ánh mắt lại ánh lên vẻ lo lắng không giấu được. "Không biết ma trêu quỷ hờn gì nữa. Người ta nói làng mình dạo này có 'người cá' lên bờ quậy phá đó."
"'Người cá'?" Tôi và Phan Hương liếc nhìn nhau, không hẹn mà cùng thấy thú vị. Lại một lời đồn đại kỳ lạ nữa.
"Ối dào, bà cứ tin mấy chuyện nhảm nhí," anh Hai Lẫm gạt đi, nhưng trong giọng nói cũng có chút không chắc chắn. "Chắc là do mấy con rái cá nó nghịch thôi. Chứ người cá đâu ra."
"Mà cô chú ơi," bé Sửu, nãy giờ chỉ im lặng ăn, đột nhiên ngước đôi mắt to tròn lên nhìn chúng tôi. "Hồi chiều con thấy… thấy có cái gì đó lấp lánh dưới bãi cát đó. Giống như… vỏ sò nhưng mà biết tự bò đi á."
"Con bé này lại nói linh tinh." Chị Thắm mắng yêu con gái. "Chắc là con còng gió thôi."
Nhưng tôi lại khẽ nhíu mày. Lời kể ngây thơ của bé Sửu, kết hợp với những hiện tượng lạ mà anh chị chủ quán vừa kể… Vỏ sò tự bò? Lưới tự thắt nút? Thuyền tự trôi? Nghe có vẻ… tinh nghịch và vô hại hơn là ma quỷ hay "người cá" gì đó. Thiên Nhãn của tôi khẽ vận, quét qua khu vực làng chài và bờ biển gần đó. Vẫn là luồng năng lượng yếu ớt màu xanh biển nhạt kia, đang lượn lờ quanh mấy chiếc thuyền thúng úp trên bãi cát. Lần này, tôi tập trung hơn, cố gắng "nhìn" rõ hơn bản chất của nó.
Nó không phải là một linh hồn hay tàn niệm. Cũng không hẳn là một sinh vật cụ thể. Nó giống như… một tập hợp năng lượng thuần túy, mang một ý thức sơ khai, hồn nhiên, và cực kỳ… tò mò, tinh nghịch?
Xem ra… lại là một Dị Vật Nội Sinh, hoặc một dạng linh thể tự nhiên nào đó thích đùa rồi, tôi thầm nghĩ, không khỏi bật cười trong lòng. Thế giới này quả thực đầy bất ngờ.
"Chắc là do sóng to gió lớn nó xô đẩy thôi chị ạ," tôi nói với chị chủ quán, quyết định không tiết lộ cảm nhận của mình. "Hoặc có khi là mấy con vật biển nhỏ nó nghịch ngợm ấy mà."
"Ừ, chắc vậy," chị chủ quán gật gù, có vẻ cũng không quá bận tâm. Đối với những người dân chài quanh năm đối mặt với biển cả bao la, những chuyện kỳ lạ nho nhỏ này có lẽ cũng không quá đáng sợ bằng một cơn bão lớn hay một mùa biển thất thu.
Sau bữa tối, chúng tôi ngồi ngoài hiên hóng gió biển mát rượi, nghe tiếng sóng vỗ bờ đều đều. Anh Hai Lẫm lấy ra cây đàn ghi-ta cũ kỹ, gảy vài điệu nhạc đồng quê mộc mạc, tiếng đàn tuy không quá điêu luyện nhưng lại chân chất và đầy tình cảm. Chị Thắm thì ngồi vá lại tấm lưới rách dưới ánh đèn dầu. Hai đứa con nhỏ, Tý và Sửu, thì đã lăn ra ngủ say trên chiếc võng mắc giữa hai cột hiên, hơi thở đều đều. Không gian thật yên bình và thư thái.
Tôi lặng lẽ vận Thiên Nhãn, hướng về phía bờ biển, nơi luồng năng lượng tinh nghịch kia vẫn đang lượn lờ quanh những chiếc thuyền thúng. Nó dường như cảm nhận được sự chú ý của tôi, khẽ dừng lại, rồi lại tiếp tục những trò đùa vô hại của mình khi thì làm một sợi dây neo khẽ rung lên, khi lại khiến một chiếc phao nhỏ dập dềnh trên mặt nước dù không có sóng. Nó giống như một đứa trẻ hiếu động, không hề có ác ý, chỉ đơn thuần là muốn chơi đùa với thế giới xung quanh theo cách riêng của nó.
Tôi mỉm cười, không cố gắng tiếp cận hay can thiệp. Có lẽ cứ để nó tự do vui đùa ở đây cũng tốt. Một chút "gia vị" kỳ ảo cho cuộc sống bình dị của làng chài này. Miễn là nó không gây ra rắc rối gì quá lớn.
Bình minh ở làng chài đến sớm và mang theo sự náo nhiệt rất riêng. Tiếng người gọi nhau í ới trên bãi cát, tiếng thuyền máy nổ giòn tan, tiếng sóng vỗ bờ mạnh mẽ hơn khi thủy triều lên. Tôi thức giấc bởi những âm thanh sống động đó, không còn là sự tĩnh lặng của núi rừng hay cái ồn ào xô bồ của thành phố. Mở cửa sổ nhìn ra, mặt biển đón những tia nắng đầu tiên, lấp lánh như dát bạc. Những chiếc thuyền đánh cá nhỏ đã bắt đầu rời bến, rẽ sóng ra khơi, mang theo hy vọng về một ngày bội thu.
Sau bữa sáng đơn giản với bánh mì chấm sữa đặc và ly cà phê đen đậm vị miền biển do chị Thắm chuẩn bị, tôi và Phan Hương cảm ơn gia đình anh chị chủ nhà tốt bụng và xin phép lên đường.
"Ối dào, có chi đâu mà cảm ơn," chị Thắm cười tươi, dúi vào tay chúng tôi một bọc cá khô nhỏ. "Hai cháu cầm lấy ít cá khô nhà làm ni ăn đường cho vui miệng. Lần sau có dịp đi ngang qua đây thì nhớ ghé lại chơi nghen."
"Nhất định rồi ạ," Phan Hương lễ phép đáp, nhận lấy bọc cá khô. "Em cảm ơn chị nhiều lắm."
Anh Hai Lẫm không nói nhiều, chỉ gật đầu chào chúng tôi, rồi lại tất bật chuẩn bị ngư cụ cho chuyến đi biển tiếp theo. Hai đứa trẻ Tý và Sửu thì chạy ra tiễn chúng tôi đến tận đầu làng, líu lo hỏi han đủ thứ, ánh mắt trong veo đầy vẻ lưu luyến.
Chúng tôi chào tạm biệt gia đình ngư dân hiếu khách, rời khỏi làng chài nhỏ bé nhưng ấm áp tình người ấy, lòng có chút gì đó bịn rịn. Khoảnh khắc bình yên ngắn ngủi này thực sự quý giá.
Chúng tôi men theo con đường ven biển, tiếp tục hành trình về phía Nam. Gió biển thổi lồng lộng, mang theo hơi muối mặn và cả vị nắng ấm áp của phương Nam. Cảnh vật hai bên đường chủ yếu là những đồi cát trắng mịn trải dài, xen lẫn những bụi cây xương rồng và rừng phi lao xanh rì chịu được gió biển. Thỉnh thoảng lại bắt gặp vài ngôi mộ cổ đơn độc nằm giữa đồi cát, hoặc những làng chài nhỏ bé khác ẩn mình sau những rặng dừa.
"Biển ở đây đẹp thật anh Hạ ạ," Phan Hương vừa đi vừa nói, cô bé có vẻ rất thích khung cảnh này.
"Ừ," tôi gật đầu. "Nhưng đừng để vẻ bề ngoài đánh lừa. Nơi càng hoang sơ, đôi khi lại càng ẩn chứa nhiều điều khó lường." Tôi vẫn luôn giữ một phần cảnh giác, Thiên Nhãn âm thầm dò xét xung quanh.
Chúng tôi đi bộ gần hết buổi sáng, rồi bắt một chuyến xe khách địa phương đi tiếp về phía Nha Trang. Trên xe, không khí cũng khá vui vẻ. Người dân địa phương ở đây có vẻ cởi mở và nói nhiều hơn so với những vùng tôi đã đi qua. Họ hào hứng kể cho chúng tôi nghe về những đặc sản của vùng biển Ninh Thuận, Khánh Hòa nào là nho Ba Mọi, tỏi Phan Rang, yến sào Hòn Nội, hay những món hải sản tươi ngon độc đáo.
Khi xe dừng nghỉ ở một thị trấn nhỏ ven biển gần Vịnh Vĩnh Hy, chúng tôi xuống xe mua nước uống và ít đồ ăn nhẹ. Đang đứng chọn mấy trái thanh long đỏ mọng, tôi bất ngờ nghe thấy tiếng cãi vã và xô xát ở một quán ăn gần đó.
"Trả tiền đây! Mày tưởng giật đồ của bà là dễ à?" Một người phụ nữ trung niên, người đầy những hình xăm hoa lá trông khá dữ dằn, đang túm tóc một thanh niên gầy gò, ốm yếu, dúi đầu cậu ta xuống bàn.
"Em… em đâu có giật… Em chỉ… chỉ nhặt được thôi mà…" Thanh niên kia lắp bắp thanh minh, mặt mày tái mét vì sợ hãi.
"Nhặt được cái gì? Cái ví tiền này rõ ràng là của tao vừa mới bị móc túi!" Người phụ nữ gầm lên, giơ cao một chiếc ví da màu đỏ sẫm. "Mày không trả đủ tiền trong ví ra đây thì đừng trách bà ác!" Bà ta giơ tay định tát vào mặt thanh niên.
Vài người xung quanh tò mò đứng xem, nhưng không ai dám can ngăn người phụ nữ hung dữ kia. Tôi khẽ nhíu mày. Tình huống này có vẻ chỉ là một vụ trộm cắp thông thường. Nhưng không hiểu sao, nhìn vào thanh niên gầy gò kia, tôi lại cảm thấy có chút gì đó… không bình thường. Ánh mắt cậu ta, ngoài sự sợ hãi, còn có một vẻ gì đó… hoang mang, như thể chính cậu ta cũng không hiểu tại sao mình lại cầm chiếc ví đó.
Tôi định bỏ đi, không muốn xen vào chuyện bao đồng, nhưng Phan Hương đã kéo tay tôi lại. "Anh Hạ… nhìn anh kia… tội nghiệp quá…" Cô bé nói nhỏ, ánh mắt lộ rõ vẻ thương cảm.
Tôi thở dài. "Thôi được rồi," tôi nói. Tôi bước về phía đám đông, cất giọng bình tĩnh nhưng đủ lớn để mọi người nghe thấy. "Khoan đã chị ơi, có chuyện gì từ từ nói. Sao lại đánh người thế này?"
Người phụ nữ xăm trổ quay phắt lại, lườm tôi từ đầu đến chân. "Thằng ranh con này là ai? Muốn bênh vực thằng ăn cắp này hả? Hay mày là đồng bọn của nó?"
"Không phải," tôi lắc đầu. "Tôi chỉ là khách qua đường. Nhưng tôi thấy có lẽ có sự hiểu lầm ở đây. Anh bạn này trông không giống kẻ trộm cắp đâu ạ." Tôi nhìn vào thanh niên kia. "Anh nói anh nhặt được chiếc ví này?"
Thanh niên gật đầu lia lịa, mặt vẫn còn tái mét. "Dạ… dạ đúng ạ! Em đang đi trên đường thì tự nhiên thấy nó rơi trước mặt… Em nhặt lên định tìm người trả lại thì… thì chị này túm lấy em luôn…"
"Mày tưởng bà ngu à?" Người phụ nữ lại gắt lên.
Tôi không nói gì thêm, chỉ khẽ vận Thiên Nhãn, nhìn vào chiếc ví trong tay người phụ nữ. Bên trong, ngoài một ít tiền mặt và giấy tờ tùy thân, còn có… một chiếc vòng tay nhỏ bằng bạc, trông khá cũ, nhưng lại phát ra một luồng năng lượng Dị Vật yếu ớt, màu xanh lục nhạt, mang theo một ý niệm… tinh nghịch?
Lại là cái kiểu năng lượng này, tôi thầm nghĩ, nhớ lại con Sa Linh trong ấm trà và hiện tượng Poltergeist ở nhà kho. Chẳng lẽ… chính cái vòng tay này mới là thủ phạm? Nó tự ‘nhảy’ từ túi người phụ nữ này sang tay thanh niên kia để trêu đùa?
Tôi cố gắng nén cười. "Chị ơi," tôi quay sang người phụ nữ, giọng vẫn ôn hòa. "Hay là thế này đi. Chị kiểm tra lại ví tiền xem có mất mát gì không? Còn chiếc vòng bạc này," tôi chỉ vào chiếc vòng, "trông có vẻ không phải đồ có giá trị lắm. Có lẽ nó chỉ vô tình rơi ra thôi. Coi như xui xẻo một chút, chị bỏ qua cho anh bạn này được không ạ?"
Người phụ nữ nghe tôi nói vậy, cũng nguôi ngoai đi phần nào. Bà ta mở ví ra kiểm tra, thấy tiền và giấy tờ vẫn còn nguyên. Bà ta liếc nhìn chiếc vòng bạc cũ kỹ, rồi lại nhìn thanh niên gầy gò đang sợ hãi, cuối cùng tặc lưỡi. "Thôi được rồi! Coi như hôm nay bà mày xui! Cút đi!" Bà ta đẩy mạnh thanh niên một cái rồi hậm hực bỏ đi.
Thanh niên kia thở phào nhẹ nhõm, vội vàng đứng dậy, cúi đầu cảm ơn tôi rối rít. "Em… em cảm ơn anh nhiều lắm! Nếu không có anh… không biết em sẽ thế nào nữa…"
"Không có gì," tôi xua tay. "Lần sau cẩn thận hơn nhé." Tôi nhìn chiếc vòng bạc vẫn còn nằm lăn lóc trên đất. "Mà cái vòng này…"
"À… cái đó…" Thanh niên gãi đầu. "Lúc nãy em nhặt ví thì nó cũng rơi ra từ trong đó. Chắc là của chị kia thật."
"Anh có muốn giữ nó không?" Tôi hỏi, có chút tò mò muốn xem phản ứng của cậu ta.
"Thôi thôi!" Thanh niên vội xua tay lia lịa. "Em sợ lắm rồi! Ai mà biết được nó có ám quẻ gì không. Anh… anh thích thì cứ lấy đi ạ." Nói rồi, cậu ta vội vàng chạy biến mất vào dòng người, như thể sợ tôi đổi ý hoặc sợ chiếc vòng bạc kia sẽ "nhảy" lại vào người mình lần nữa.
Phan Hương đứng bên cạnh, nhìn tôi khó hiểu. "Sao anh lại lấy cái vòng đó? Trông nó cũ xì à."
Tôi nhặt chiếc vòng bạc lên, cảm nhận luồng năng lượng tinh nghịch yếu ớt tỏa ra từ nó. Tôi bật cười. "Chỉ là một món đồ 'thú vị' thôi. Coi như nhặt được chút kỷ niệm trên đường đi." Tôi cất chiếc vòng vào túi áo khoác.
Hành trình tiếp tục đưa chúng tôi qua Bình Thuận, với những đồi cát bay Mũi Né hùng vĩ và những khu resort hiện đại ven biển. Không khí càng vào Nam càng trở nên nóng ẩm và náo nhiệt hơn. Chúng tôi đã đi được một chặng đường khá xa, gần đến được cửa ngõ của vùng Đông Nam Bộ, nơi thành phố Hồ Chí Minh hoa lệ đang chờ đợi.
Trong một khu chợ phiên nhỏ ở một thị trấn ven biển, nơi người ta bày bán đủ thứ đồ cũ, từ ngư cụ, đồ dùng gia đình đến những món đồ lưu niệm không rõ nguồn gốc, ánh mắt tôi tình cờ dừng lại ở một quầy hàng lụp xụp. Giữa đống đồ đồng nát, có một vật nhỏ thu hút sự chú ý của tôi một viên đá màu đen tuyền, nhẵn bóng, kích thước chỉ bằng đầu ngón tay cái, trông không có gì đặc biệt. Nhưng khi tôi khẽ vận Thiên Nhãn, tôi lại cảm nhận được một luồng năng lượng rất lạ, tĩnh lặng đến mức gần như không thể cảm nhận, nhưng lại ẩn chứa một sự thâm sâu khó dò. Không phải năng lượng Dị chủng, cũng không phải linh khí, nó giống như… một khoảng không thu nhỏ, tĩnh lặng tuyệt đối.
Thứ gì đây? Tôi tò mò nhặt viên đá lên. Nó mát lạnh trong lòng bàn tay, không hề có dao động năng lượng rõ rệt nào. Hắc Ảnh trong tôi cũng im lặng, dường như không cảm nhận được gì từ nó.
"Viên đá này bán bao nhiêu vậy chú?" Tôi hỏi người bán hàng, một ông lão khắc khổ đang ngồi lim dim.
"À… cái đó hả?" Ông lão mở mắt, liếc nhìn viên đá. "Đá sông thôi mà cậu. Nhặt được ngoài bờ suối. Thích thì cho cậu luôn đó." Ông nói rồi lại nhắm mắt, không mấy quan tâm.
Tôi mỉm cười, dù không biết tác dụng của nó là gì, nhưng cảm giác mách bảo tôi nên giữ lại. Tôi cảm ơn ông lão, cất viên đá đen nhỏ vào túi áo.
Chúng tôi rời khỏi chợ phiên, tìm một quán nước ven đường nghỉ chân. Đang ngồi uống nước dừa mát lạnh, một người đàn ông trung niên dáng vẻ khỏe mạnh, nước da rám nắng, thấy chúng tôi là khách lạ thì nhiệt tình đến bắt chuyện. Anh tên Hải, là một người dân địa phương làm nghề sửa chữa đồ điện tử. Anh Hải rất vui tính và hiếu khách, anh kể cho chúng tôi nghe đủ thứ chuyện về vùng đất này, về những đổi thay sau chiến tranh, về cuộc sống mưu sinh của người dân.
"Hai cô cậu trông còn trẻ, chắc là sinh viên đi du lịch hả?" Anh Hải hỏi.
"Dạ, cũng gần giống vậy ạ," Phan Hương đáp. "Bọn cháu đang trên đường vào Nam."
"Vào Nam à? Đường xa vất vả đó. Tối nay tìm được chỗ nghỉ chưa?" Anh Hải quan tâm hỏi.
"Bọn cháu cũng đang tính tìm nhà nghỉ ạ," tôi nói.
"Ối, nhà nghỉ làm chi cho tốn kém!" Anh Hải xua tay. "Nhà anh cũng gần đây thôi, tuy không rộng rãi gì nhưng còn dư phòng trống. Hay là hai cô cậu về nhà anh nghỉ tạm một đêm đi? Coi như làm quen, anh em mình trò chuyện thêm cho vui." Anh nói với vẻ mặt rất chân thành.
Tôi định từ chối vì không muốn làm phiền, nhưng anh Hải nhất quyết không chịu. Anh nói ở đây người dân quý khách lắm, gặp nhau là cái duyên, không thể để khách đường xa phải ngủ bờ ngủ bụi được. Sự nhiệt tình và chân chất của anh khiến tôi và Phan Hương khó lòng từ chối.
Vậy là chúng tôi theo chân anh Hải về nhà anh, một ngôi nhà cấp bốn đơn sơ nhưng sạch sẽ, nằm trong một con xóm nhỏ yên tĩnh. Vợ anh Hải là một người phụ nữ hiền lành, cũng niềm nở đón tiếp chúng tôi.
Trong lúc vợ anh Hải chuẩn bị bữa cơm tối, anh Hải ngồi lại phòng khách trò chuyện với chúng tôi. Qua câu chuyện, tôi mới biết anh chị có một đứa con trai duy nhất, tên Khoa, năm nay mười lăm tuổi.
"Thằng bé… tội nghiệp lắm," anh Hải thở dài, ánh mắt thoáng nét buồn rười rượi. "Mấy năm trước nó bị tai nạn giao thông, đầu va đập mạnh. May mắn giữ được tính mạng, nhưng từ đó… nó cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, lúc tỉnh lúc mê, chẳng còn nhận ra ai nữa." Giọng anh nghẹn lại. "Bác sĩ bảo tổn thương não nặng lắm, không có cách nào chữa trị dứt điểm được. Vợ chồng tôi cũng đưa nó đi chạy chữa khắp nơi, tốn kém bao nhiêu tiền của, nhưng cũng chỉ đỡ được phần nào thôi."
Nghe câu chuyện của anh, lòng tôi cũng trĩu xuống. Hoàn cảnh của gia đình anh thật đáng thương.
Đúng lúc đó, từ trong căn phòng nhỏ phía sau, một cậu bé dáng người gầy gò, mặc bộ quần áo ngủ rộng thùng thình, chậm rãi bước ra. Đôi mắt cậu bé to tròn nhưng ánh nhìn lại lơ đãng, vô hồn, khuôn mặt không chút biểu cảm. Cậu bé đi đến bên cạnh bố, rồi cứ đứng im như vậy, không nói không rằng.
"Khoa đó hả con?" Anh Hải quay sang, giọng dịu dàng hẳn đi. "Đây là anh chị khách của bố mẹ nè. Con chào anh chị đi."
Cậu bé Khoa không phản ứng, ánh mắt vẫn nhìn vào khoảng không vô định.
"Nó đó cậu Hạ à," anh Hải buồn bã nói. "Nhiều lúc tỉnh táo một chút thì còn nhận ra bố mẹ, chứ phần lớn thời gian là cứ như người mất hồn vậy đó."
Tôi im lặng nhìn cậu bé Khoa. Tình trạng này, y học hiện đại có lẽ bó tay thật. Nhưng trong thế giới siêu nhiên mà tôi biết, liệu có phương cách nào không? Năng lượng Thiên Nhãn của tôi có thể điều hòa khí tức, chữa lành những tổn thương nhỏ, nhưng tổn thương não bộ nghiêm trọng như thế này thì tôi không chắc.
Trong lúc tôi đang mải suy nghĩ, viên đá đen nhỏ trong túi áo tôi đột nhiên khẽ rung lên. Một luồng năng lượng tĩnh lặng, khó tả tỏa ra từ nó, hướng thẳng về phía cậu bé Khoa.
Và rồi, một chuyện hoàn toàn bất ngờ xảy ra.
Viên đá đen từ trong túi áo tôi tự động bay ra, lơ lửng giữa không trung trong giây lát, rồi bay thẳng về phía cậu bé Khoa.
"Cẩn thận!" Tôi và anh Hải cùng hét lên, nhưng không kịp.
Cậu bé Khoa, bằng một phản xạ vô thức nào đó, đưa tay ra bắt lấy viên đá đen đang bay tới. Đôi mắt vô hồn của cậu bé chợt ánh lên một tia sáng lạ. Cậu nhìn chằm chằm vào viên đá trong lòng bàn tay, rồi không một chút do dự, đưa nó lên miệng… và nuốt chửng!
"Khoa! Không được!" Anh Hải kinh hoàng lao tới định ngăn lại, nhưng đã quá muộn. Viên đá đen đã trôi tuột vào bụng cậu bé.
Không khí trong phòng như đông đặc lại. Anh Hải và vợ anh đứng chết trân, mặt cắt không còn giọt máu, tôi và Phan Hương cũng nín thở, cực kì căng thẳng, đã đến nhà người ta làm khách mà lại làm hại con nhà người ta thì dù có tốt bụng đến cỡ nào cũng không thể tha thứ cho mình được rồi.
Nhưng, không có gì xảy ra cả. Cậu bé Khoa vẫn đứng đó, không có biểu hiện đau đớn hay khó chịu nào. Chỉ có đôi mắt cậu bé đang từ từ… thay đổi.
Ánh nhìn lơ đãng, vô hồn biến mất, nhường chỗ cho sự trong trẻo, linh hoạt. Cậu bé chớp mắt mấy cái, nhìn quanh căn phòng, rồi nhìn vào bố mẹ mình, ánh mắt ngỡ ngàng, rồi lại vỡ òa trong niềm vui sướng.
"Bố? Mẹ?" Cậu bé gọi, giọng nói trong trẻo, rõ ràng, không còn vẻ ngây dại nữa. "Sao… sao con lại ở đây? Mọi người…"
"Khoa. Con… con nhận ra bố mẹ rồi sao?" Anh Hải run rẩy hỏi, không dám tin vào mắt mình.
"Vâng ạ. Là con đây mà!" Cậu bé Khoa chạy đến ôm chầm lấy bố mẹ, nước mắt tuôn rơi. "Con… con nhớ ra rồi. Con nhớ hết mọi chuyện rồi”
Vợ chồng anh Hải cũng ôm lấy con trai, khóc nức nở vì quá đỗi vui mừng và xúc động. Khung cảnh đoàn tụ bất ngờ này khiến tôi và Phan Hương cũng không kìm được nước mắt.
Viên đá đen kia… rốt cuộc là gì? Nó không mang lại năng lượng, không có khả năng đặc biệt rõ ràng, nhưng lại có thể chữa lành tổn thương não bộ, khôi phục lại ý thức cho một người tưởng chừng đã mất đi hoàn toàn? Hay là nó đã hấp thụ đi cái phần "tổn thương" bên trong Khoa? Thật khó hiểu. Nhưng kết quả trước mắt lại quá đỗi kỳ diệu.
Sau phút giây đoàn tụ đầy xúc động, cậu bé Khoa, giờ đây đã hoàn toàn tỉnh táo và lanh lợi, chạy lại phía tôi, khoanh tay cúi đầu. "Cháu cảm ơn chú nhiều lắm ạ. Nếu không có viên đá của chú, có lẽ cháu… cháu sẽ mãi mãi không tỉnh lại được."
"Không có gì đâu cháu," tôi mỉm cười, xoa đầu cậu bé. "Có lẽ đó là duyên phận của cháu thôi." Tôi không giải thích về nguồn gốc hay bản chất thực sự của viên đá, cũng không cần thiết.
Tối hôm đó, gia đình anh Hải tổ chức một bữa cơm thịnh soạn để cảm ơn chúng tôi và ăn mừng sự hồi phục kỳ diệu của Khoa. Không khí vui vẻ, ấm áp tràn ngập ngôi nhà nhỏ. Khoa lanh lợi, hoạt bát hẳn ra, cậu bé kể đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, hỏi han tôi và Phan Hương về hành trình, về những nơi chúng tôi đã đi qua. Nhìn thấy nụ cười rạng rỡ của cậu bé và niềm hạnh phúc ánh lên trong mắt vợ chồng anh Hải, lòng tôi cũng cảm thấy vui lây.
Đêm xuống, sau khi mọi người đã đi ngủ, tôi không ngủ được, lại ra ngoài hiên ngồi ngắm trăng. Ánh trăng đêm nay sáng và tròn hơn, chiếu rọi khoảng sân nhỏ yên tĩnh. Bất chợt, tôi nghe thấy tiếng động khe khẽ từ phía gian nhà trong.
Tôi nhìn thấy cậu bé Khoa đang lặng lẽ quỳ trước giường ngủ của bố mẹ, hai tay chắp lại, đầu cúi thấp, như đang thành tâm cầu nguyện điều gì đó. Cậu bé quỳ ở đó rất lâu, không hề nhúc nhích.
Một lúc sau, Khoa từ từ đứng dậy, cậu bé không về phòng mình, mà lại lặng lẽ đi xuống bếp. Dưới ánh trăng lờ mờ hắt qua cửa sổ, tôi thấy cậu bé bắt đầu… nấu ăn. Những động tác của cậu tuy còn hơi vụng về của một đứa trẻ mới lớn, nhưng lại rất cẩn thận, tỉ mỉ. Cậu chuẩn bị một mâm cỗ nhỏ nhưng đầy đủ các món ngon, bày biện đẹp mắt lên chiếc bàn gỗ giữa nhà.
Nấu ăn xong, Khoa không ăn mà lại đi ra gian thờ tổ tiên. Cậu bé thắp ba nén hương trầm, khói hương lượn lờ trong không khí. Cậu đứng lặng trước bàn thờ rất lâu, ánh mắt thành kính nhìn lên di ảnh của ông bà, tổ tiên.
Sau đó, cậu bé quay trở lại phòng khách, dọn dẹp nhà cửa một cách lặng lẽ. Cậu lau bàn ghế, quét nhà, sắp xếp lại đồ đạc gọn gàng, ngăn nắp. Mọi hành động của cậu đều chậm rãi, từ tốn, và chứa đựng một sự trân trọng lạ thường.
Cuối cùng, khi mọi việc đã xong xuôi, Khoa quay trở lại phòng ngủ của bố mẹ. Cậu lại quỳ xuống bên giường, nhìn bố mẹ đang say ngủ với ánh mắt quyến luyến, yêu thương. Cậu bé ở đó, im lặng, rất lâu.
Rồi, cậu bé từ từ đứng dậy, quay người, lặng lẽ trở về căn phòng nhỏ của mình. Cậu nằm xuống giường, nhắm mắt lại, và… nằm im bất động. Hơi thở cậu bé dần yếu đi, rồi… tắt hẳn.
Tôi đứng ngoài hiên, sững sờ chứng kiến tất cả. Linh hồn cậu bé Khoa thực sự đã siêu thoát sau vụ tai nạn đó rồi sao? Điều gì đã giữ cậu bé ở lại? Là chấp niệm với gia đình? Hay là… do viên đá đen kia?
Viên đá đen kỳ lạ kia, bằng một cách nào đó không thể lý giải, có lẽ đã tạm thời "vá" lại linh hồn tan vỡ, hoặc hấp thụ đi phần hỗn loạn do tổn thương não bộ, giúp ý thức cuối cùng của Khoa được trọn vẹn trở lại trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Khoảng thời gian quý giá ấy, cậu bé đã không dùng để níu kéo sự sống, mà để làm những việc cuối cùng mà cậu có thể làm cho cha mẹ: một mâm cơm tự tay nấu, một gian nhà sạch sẽ, một nén hương tưởng nhớ tổ tiên, và… một lời từ biệt thầm lặng trong đêm.
Trái tim tôi như có một chiếc chuông nhỏ đang gõ liên hồi, tình yêu thương vô bờ bến mà cậu dành cho gia đình, và sự nghiệt ngã của số phận… tất cả tạo thành một bức tranh buồn bã, ám ảnh, khắc sâu vào tâm trí tôi.
Sáng hôm sau, khi ánh bình minh vừa hé rạng, đánh thức vạn vật sau một đêm dài, tôi lặng lẽ thu dọn hành lý. Phan Hương thấy tôi dậy sớm cũng đã chuẩn bị xong xuôi. Cô bé nhìn tôi, ánh mắt có chút thắc mắc trước vẻ trầm lặng khác thường của tôi.
Đúng lúc đó, vợ chồng anh Hải từ trong phòng bước ra. Khuôn mặt họ không còn vẻ rạng rỡ, vui mừng như tối qua. Thay vào đó là một nỗi buồn sâu sắc, nhưng lại không hề có sự bất ngờ hay hoảng loạn. Họ chỉ lặng lẽ nhìn nhau, rồi nhìn về phía căn phòng nhỏ nơi Khoa đã yên nghỉ, ánh mắt ngập tràn tình yêu thương, sự tiếc nuối, và cả một sự… chấp nhận thanh thản.
Họ… đã biết ư?
Dường như đọc được suy nghĩ của tôi, chị vợ anh Hải chị Vân mỉm cười nhẹ, một nụ cười buồn nhưng lại rất đỗi dịu dàng. "Đêm qua… bác có nằm mơ," chị nói khẽ, giọng nghẹn ngào. "Thấy thằng Khoa nhà bác nó về… Nó nói… nó phải đi rồi, đi đến một nơi rất xa, không còn đau đớn nữa. Nó dặn bố mẹ đừng buồn, phải sống thật tốt…" Nước mắt chị lại lăn dài trên gò má.
Anh Hải vòng tay ôm lấy vợ, bờ vai anh khẽ run lên. "Con nó… hiếu thảo lắm cậu ạ. Dù lúc sống nó ngây ngây dại dại, nhưng trong thâm tâm nó lúc nào cũng thương bố mẹ." Anh nhìn tôi, ánh mắt đỏ hoe nhưng lại ánh lên sự biết ơn chân thành. "Cảm ơn cậu… vì đã cho vợ chồng tôi… được gặp lại con, được nghe nó gọi tiếng 'bố mẹ' một lần nữa… trước khi nó thực sự ra đi."
Tôi lặng người, không biết nói gì. Thì ra là vậy. Giấc mơ báo mộng? Hay là sự kết nối tâm linh mãnh liệt giữa cha mẹ và con cái? Dù sao giờ đây tất cả đều không còn quan trọng nữa.
"Bác trai, bác gái…" Phan Hương cũng xúc động, cô bé nghẹn ngào bước tới, khẽ nắm lấy tay chị Vân. "Cháu… cháu xin chia buồn cùng hai bác."
"Cảm ơn hai cháu," chị Vân mỉm cười, lau vội nước mắt. "Thôi, chuyện gì đến cũng phải đến. Ít nhất… nó cũng được thanh thản rồi." Chị nhìn chúng tôi. "Hai cháu chuẩn bị đi rồi phải không? Cứ đi đi, đừng vì chuyện nhà bác mà áy náy. Được gặp hai cháu, với gia đình bác, đã là một cái duyên rất lớn rồi."
"Vậy là… viên đá đó thực sự đã giúp em ấy… thanh thản sao?" Phan Hương khẽ hỏi khi chúng tôi lặng lẽ rời khỏi ngôi nhà nhỏ của gia đình anh Hải, để lại sau lưng nỗi buồn thương nhưng cũng đầy thanh thản của đôi vợ chồng vừa mất đi đứa con duy nhất. Giọng cô bé có chút run rẩy, xen lẫn sự kinh ngạc và cả một chút hy vọng mơ hồ.
Tôi bước đi bên cạnh cô, ánh mắt nhìn thẳng về con đường đất nhỏ phía trước, cố gắng giữ cho giọng mình thật bình tĩnh, "Có lẽ vậy," tôi đáp, giọng đều đều. "Hoặc có thể, viên đá chỉ đơn thuần là một chất xúc tác cuối cùng. Điều quan trọng là ý chí của cậu bé. Chấp niệm cuối cùng của Khoa là được báo hiếu, được nói lời từ biệt. Khi tâm nguyện đã thành, linh hồn cậu ấy tự khắc tìm được sự giải thoát. Viên đá kia, có thể nó đã giúp ổn định lại phần ý thức còn sót lại, cho cậu bé khoảng thời gian quý giá để hoàn thành tâm nguyện đó."
Tôi phân tích rành mạch như một nhà nghiên cứu tâm linh thực thụ. Tôi cố gắng gạt bỏ đi những cảm xúc phức tạp đang cuộn trào trong lòng sự ám ảnh về cái chết lặng lẽ của Khoa, sự day dứt về vai trò của viên đá đen bí ẩn, và cả cái cảm giác bất lực khi đối mặt với những quy luật vượt ngoài tầm hiểu biết của mình. Tôi muốn tỏ ra mạnh mẽ trước mặt Phan Hương, muốn là chỗ dựa cho cô bé trong cái thế giới đầy rẫy những điều phi lý này.
Phan Hương im lặng lắng nghe nhìn tôi rồi cũng khẽ gật đầu. "Em hiểu rồi… Giống như tàn niệm của lão nhân viết sách ở Hội An phải không anh? Khi tâm nguyện được hoàn thành, thì sẽ tự siêu thoát."
"Ừ, cũng gần giống vậy," tôi đáp, khẽ thở phào vì cô bé dường như đã chấp nhận lời giải thích của tôi. "Mỗi thực thể, mỗi linh hồn đều có những chấp niệm riêng níu giữ họ lại với cõi trần. Khi chấp niệm được hóa giải, sự ra đi sẽ thanh thản hơn."
Chúng tôi tiếp tục bước đi trong im lặng. Ánh nắng ban mai chiếu rọi con đường quê yên bình, tiếng chim hót líu lo, không khí trong lành… một khung cảnh tưởng như thanh bình, nhưng trong lòng tôi lại là một mớ hỗn độn.
Ngươi đang tự lừa dối chính mình đấy, Lý Hạ à, Hắc Ảnh lại thì thầm, lần này giọng điệu không còn chế nhạo, mà lại mang một sự mỉa mai cay độc. "Chấp niệm"? "Tâm nguyện"? Ngươi thực sự tin vào mấy lời lẽ sáo rỗng đó sao? Hay ngươi chỉ đang cố gắng tìm một lý do đẹp đẽ để che đậy cho sự thật rằng, chính ngươi, chính viên đá ngươi mang đến, đã góp phần… kết thúc một mạng sống?
Tôi nghiến răng, cố gắng đẩy lùi giọng nói đáng ghét đó. Không phải lỗi của ta! Ta không hề biết viên đá đó sẽ như vậy! Ta chỉ… tình cờ nhặt được nó!
Tình cờ? Hắc Ảnh cười khẩy. Trong cái thế giới này, có bao nhiêu thứ thực sự là tình cờ? Ngươi mang trong mình Thiên Nhãn, có thể nhìn thấu năng lượng. Ngươi không cảm nhận được sự bất thường của viên đá đó sao? Hay ngươi cố tình phớt lờ, vì một chút tò mò, một chút ích kỷ muốn giữ lại một Dị Vật không rõ lai lịch?
Không! Ta không hề…
Thừa nhận đi, Lý Hạ, Hắc Ảnh tiếp tục xoáy sâu vào nỗi dằn vặt của tôi. Ngươi không phải bậc thánh nhân nào cả. Ngươi cũng có tham vọng, cũng có sự ích kỷ. Ngươi giữ lại viên đá vì nghĩ rằng nó có thể hữu dụng. Và giờ đây, một cậu bé đã chết. Dù gián tiếp, nhưng ngươi cũng không thể phủi sạch trách nhiệm.
Tôi siết chặt nắm tay, móng tay bấm sâu vào lòng bàn tay đến rướm máu. Một phần nào đó, Hắc Ảnh nói đúng. Tôi đã cảm nhận được sự bất thường của viên đá đen, nhưng tôi đã không cảnh giác đúng mức. Tôi đã để nó tiếp cận cậu bé Khoa. Và dù kết quả cuối cùng có vẻ như là sự thanh thản cho cậu bé và gia đình, thì tôi vẫn không thể rũ bỏ được cảm giác mình đã đóng một vai trò nào đó trong cái chết ấy.
Tôi ghê tởm bản thân mình. Ghê tởm sự yếu đuối, sự thiếu quyết đoán, sự mâu thuẫn bên trong. Miệng thì luôn nói về Kỳ đạo Âm Dương, về sự cân bằng, về việc dùng tâm chính đại dẫn dắt sức mạnh.


0 Bình luận