• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Oneshot

Oneshot

0 Bình luận - Độ dài: 2,900 từ - Cập nhật:

Chiếc hộp nhỏ nằm gọn trong bàn tay tôi. Tôi lật nó lại: Không có gì trên lớp vỏ màu đồng đã bắt đầu hoen rỉ. Không một ký hiệu, dấu khắc hay một mẩu nhãn dán sờn cũ nào cho biết xuất xứ của nó. Chỉ nhìn thoáng qua, trông nó chẳng khác gì một hộp trang sức tầm thường. Tôi nhặt lên chiếc chìa khóa nhỏ nằm giữa mớ giấy bọc màu nâu bị vứt trên sàn. Rồi một suy nghĩ bỗng vụt đến khiến tôi chùn tay. Phải chăng chiếc hộp này được gửi đến từ một trong đám bạn tinh quái của tôi? Nếu thế, tất cả chuyện này bốc mùi ám muội hơn một trò chơi khăm bình thường. Hoặc là một kẻ nào đó ghen ghét tôi đã gửi đến thứ này để ngầm ám hại tôi? Tôi nhìn vào lỗ khóa đen ngòm như miệng cá mập ăn thịt người. Trí tò mò đã ngăn tôi phải vứt chiếc hộp này đi thật xa và để nó trôi vào miền quên lãng của ký ức ngay khi vừa nhận được. Lẽ ra tôi phải làm thế. Tôi nâng chiếc hộp lên kê sát vành tai. Không nghe tiếng tíc tắc nào. Tôi lắc khẽ. Âm thanh lanh canh trầm đục vọng ra cho thấy hộp rỗng, và có thứ gì đó bên trong. Của báu chăng? Một chiếc hộp có bẫy không bao giờ phát ra âm thanh kiểu đó. Tôi tra chìa vào và vặn, thật thận trọng. Thanh chốt bên trong vang lên một tiếng tách gọn gàng và nắp hộp bật lên. 

Tôi thất vọng khi thấy trong hộp chỉ có duy nhất một cái đồng hồ đeo tay kiểu cổ, dây đeo bằng da đã ngả màu đen vì mồ hôi. Mặt đồng hồ to cỡ đồng 50 xu thì sáng bóng như mới, và có các chốt vặn chìa ra ở 2 bên rìa được mạ vàng. Tôi cầm chiếc đồng hồ lên xem xét. Không hề có kim chỉ giờ hay số, cũng không có dấu hiệu cho thấy nó chạy bằng pin hay bất kỳ loại năng lượng nào. Cấu trúc tổng thể của món đồ này khiến người ta không khỏi thắc mắc nó được tạo ra vì mục đích gì, vì rõ ràng, xét vẻ bề ngoài, nó không thể hiện được đúng chức năng cần có của một chiếc đồng hồ đeo tay.

“Cháu thích nó chứ?”

Âm thanh vang lên bên tai trong căn phòng chỉ có mình tôi khiến tôi giật bắn mình. Tôi quay đầu lại, hoàn toàn theo phản xạ. Đang nhìn xuống tôi là một người đàn ông nhăn nheo, khô quắt như một cành cây chết. Ông ta đứng ngay trước cửa phòng tôi, trông quen một cách lạ lùng. Môi thâm tái, mặt trắng bệch như ngâm nước nhiều giờ. Tôi thậm chí có thể thấy được những mạch máu xanh lét trên cái trán rộng chỉ còn da bọc xương. Sự kinh ngạc trong tôi dần nhường bước cho cơn giận bốc lên. Tôi định quát ông ta một tiếng để ra oai, nhưng miệng tôi cứ thế há hốc mà không sao ngậm lại được: Tôi có thể thấy màu xanh ngọc của cánh cửa phòng xuyên qua lớp vải màu trắng của chiếc áo phòng thí nghiệm ông ta đang mặc, hệt như nhìn qua một lớp rèm mỏng.

“Cẩn thận ruồi bay vào miệng đấy. Trông cháu như vừa thấy ma vậy, biết không? Đùa chút thôi, đã quá lâu ta không tìm được người để đùa.”

Ông ta bước tới. Không, lướt tới mới đúng. Ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bập bênh tôi thích nhất, ông chun mũi, nhìn tôi đăm đăm, khuôn mặt lộ vẻ vui sướng không thể kiềm chế.

Mất một lúc sau, tôi mới đủ can đảm mở lời.

“Ông… là ai?”

Trông ông lão có vẻ phật ý.

“Nghĩ thử xem, bao nhiêu năm ta lang thang giữa hai bờ sống chết, chỉ để nghe chính con cháu mình nói những lời đó! Hừ, lũ còn sống các người lúc nào cũng bảo, họ luôn sống mãi trong ký ức của chúng ta! Rặt những lời đầu môi chót lưỡi! Khốn nạn thay cho hồn ta!”

Đôi mắt hồn ma bắt đầu nhòe nước. Tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ thấy một hồn ma khóc. Trong phim kinh dị, những tiếng khóc ai oán vang lên trong các ngôi nhà bỏ hoang thường được cho là do các hồn ma, vậy nên tôi đoán họ cũng có thể khóc. Ông nấc lên, tiếng nghèn nghẹn như nước chảy qua một ống cống bị tắc lâu ngày, khiến toàn thân tôi nổi da gà. Ông khóc như một đứa trẻ. Làm tôi nhớ đến những ngày còn bên bố, khi tôi vẫn còn là một thằng nhóc tỳ. Ngày ấy bố vẫn thường đặt tôi ngồi trên đùi ông, tay lật từng trang cuốn album ảnh bao thế hệ gia đình đã ố vàng ra, chỉ cho tôi từng người một bằng giọng tự hào. “Frank, đây là ông Herbert! Ông ấy là…”

“Cháu biết rồi! Ông là ông cố của cháu!”

“Franky! Cuối cùng cháu cũng nhận ra ông!” Hồn ma hài lòng đến độ nhảy cẫng lên khỏi ghế và cứ thế lượn một vòng quanh trần nhà. Cảnh này khiến tôi nhớ đến các phi hành gia trong môi trường không trọng lực. Tôi bật phì cười. Nỗi sợ ban đầu đã bay biến đi từ lúc nào, thay vào đó là vô số câu tôi muốn hỏi ông. Đâu phải ngày nào cũng có cơ may được tiếp chuyện với một hồn ma. Tôi biết vô số người trên thế giới sẵn sàng đánh đổi tất cả để được ở vào vị trí tôi ngay lúc này.

“Vì sao trước đây ông chưa bao giờ xuất hiện?”

Ông Herbert ngừng trò bay lượn và ngồi xuống sàn, mặt nghiêm túc.

“Cháu chưa bao giờ thắc mắc ai đã gửi cho cháu thứ đó sao?” Ông chỉ chiếc đồng hồ trên tay tôi. “Chớ có vội mà đeo nó lên! Ta sẽ nói hết cho cháu biết. Chính ta đã gửi nó! Nói đúng hơn, ta đã ký thác cho một người đáng tin cậy để gửi nó cho họ hàng gần nhất còn sống của ta khi ta chết đi. Ta đã đánh cược vào hy vọng mong manh rằng nó sẽ vượt qua được bom đạn để đến tay một trong những hậu duệ của ta. Nhưng ta không ngờ lại mất đến hơn năm mươi năm! Năm mươi năm trời ta vật vờ giữa sự sống và cái chết, bị cầm tù trong cái hộp sắt bốc mùi đó!” Giọng ông lại bắt đầu nghèn nghẹn.

“Khoan đã, tại sao ông lại muốn gửi cho cháu thứ này đến thế?” Tôi vội hỏi trước khi lỗ tai mình lại phải chịu sự tra tấn từ tiếng khóc của hồn ma lần nữa.

Ông ngước nhìn tôi, vẻ buồn thảm chết chóc trong mắt đã biến mất, thay vào đó là một khối lửa hận thù rực cháy.

“Ông không thể siêu thoát vì ông bị chết oan! Ông đã bị giết một cách tức tưởi, cháu yêu ạ! Những kẻ ganh ghét với tài năng của ông đã âm mưu triệt hạ ông. Chắc cháu không biết ông của cháu là một nhà khoa học lỗi lạc đến mức nào! Có những kẻ không hiểu sự vĩ đại của ông… Trong đầu chúng chỉ có những lý tưởng sáo rỗng và danh lợi phù phiếm! Chỉ có ông là thực tế! Lẽ ra ông đã làm được rất nhiều, rất nhiều điều cho nhân loại nếu ông không chết đi. Ông luôn biết mình sẽ bị ám hại một ngày nào đó, nên ông đã chế ra thứ này như một biện pháp cuối cùng. Nó sẽ giúp ông có thêm một chút thời gian để hoàn thiện phát minh của mình, một thứ sẽ biến thế giới này trở thành nơi tốt hơn, đẹp hơn rất nhiều so với thế giới cháu đang sống. Và cháu, chính cháu phải giúp ông thực hiện ước nguyện sau cùng này!”

Tôi suýt đánh rơi chiếc đồng hồ. Cảm giác nó không còn là chiếc đồng hồ cũ kỹ tầm thường như trước nữa. Tôi như nhận thấy sức nặng từ những lời ông nói khi sờ vào lớp mạ kim loại lạnh lẽo giữa các ngón tay.

“Cháu phải làm gì với thứ này?” Tôi lắp bắp hỏi.

“Nó là một cỗ máy thời gian, Frank ạ! Cháu đã đọc tiểu thuyết của H.G.Wells chưa? Hãy nhìn những nút bấm bên rìa đồng hồ. Sợi dây da có hai chiều, chiều thuận đưa cháu về quá khứ và chiều ngược sẽ đưa cháu đến tương lai. Bấm vào nút này, cháu có thể chọn chính xác thời gian và địa điểm cháu muốn đến. Bằng thứ này, chúng ta có thể trở về đúng lúc để ngăn chặn kẻ định giết hại ông! Và lịch sử sẽ thay đổi!”

Tôi choáng ngợp trước làn sóng thông tin vừa ập đến. 

Tôi đang nắm trong tay một cỗ máy thời gian! 

Tôi sẽ phải quay về quá khứ và cứu một người đã chết! 

Tôi phải thay đổi lịch sử nhân loại chỉ vì hồn ma của một người ông đang bảo tôi làm thế! 

Không đời nào! Ai đó tát cho tôi một cái để tôi tỉnh dậy ngay đi!

“Cháu… cháu e việc này hơi quá sức cháu! Sao ta không thử tìm một cách khác để giúp ông? Cháu sẽ gọi cho những người khác trong gia đình và khi họ đến đây, chúng ta sẽ…”

“Cháu không muốn giúp ông!” Hồn ma tuyệt vọng kêu lên. “Hết rồi! Hết rồi! Hy vọng của nhân loại!” Ông lại bắt đầu bay vòng vòng quanh phòng. Ông bay nhanh đến mức không khí xung quanh ông bị cuốn thành một cơn lốc nhỏ, thổi bay những cuốn sách khỏi kệ và hất đổ chiếc ghế bập bênh. Rèm cửa sổ bung khỏi móc và bắt đầu khiêu vũ đầy ngẫu hứng giữa không trung trong khi các tấm kính kêu lên răng rắc một cách đáng ngại.

“Thôi được! Thôi được! Cháu sẽ giúp ông!” Tôi gào lên giữa tiếng gió rít. “Cháu đã bảo là sẽ giúp mà!”

Tiếng gió dịu dần rồi ngừng hẳn. Tôi run run nhặt những cuốn sách ngổn ngang trên sàn. Thật cay đắng! Tại sao chuyện này lại đổ xuống đầu tôi? Tôi hiểu mình đã không còn lựa chọn. Ai biết cơn giận dữ của một hồn ma có thể đáng sợ đến mức nào nếu tôi không đồng ý giúp ông? Hơn nữa, một phần trong tôi bắt đầu thấy tội nghiệp cho năm mươi năm khổ ải của ông. Không bao giờ được yên nghỉ trong khi kẻ giết ông vẫn được tự do tự tại. Dù là ai, hắn cũng đáng phải chịu sự xét xử của công lý. Khi nghe tôi nói vậy, ông lại òa ra khóc, nhưng lần này lẫn trong những giọt nước mắt của ông là một nụ cười toe toét, tràn đầy sức sống, trái ngược hẳn với dáng vẻ thây ma thảm hại lúc trước.

“Đúng rồi, xoay cái núm đó, từ từ thôi, không cần nhanh quá. Cháu sẽ sớm thấy hiệu quả của nó!”

Bụng tôi quặn lên một cái khi đất trời xung quanh tôi đảo lộn. Hệt như đang đi trên đất bằng thì đột nhiên bị rơi vào một cái hố sâu hun hút. Mọi thứ xung quanh chợt tối đen và có cảm giác bị ép chặt, như thể tôi đột nhiên bị nhét vào một cái ống quá nhỏ so với thân hình. Và rồi cũng đột ngột như lúc nó xảy đến, tôi được giải phóng. Tôi bò bằng bốn chi trên đất, cố lấy lại thăng bằng. Mũi tôi ngửi thấy thoang thoảng mùi kim loại và hóa chất. Tôi cố kìm một tiếng hắt xì. Giọng nói ma quái thì thào sát bên tai tôi.

“Bao năm rồi ta mới lại quay về chốn này! Ôi những ngày xưa cũ!”

Tôi nhìn quanh, hồn ma của ông Herbert ở ngay bên cạnh tôi, trông rợn người hơn gấp trăm lần nhờ ánh đèn lờ mờ đỏ rực của một nơi trông như phòng nghiên cứu. Những bồn thủy tinh hình trụ cao từ sàn tới trần xếp thẳng tắp thành hàng, bên trong đầy ắp những cái bóng vô hình vô dạng như những hình ảnh của Rorschach đang bập bềnh trong thứ nước phát sáng màu xanh lục nhợt nhạt. Những ống nước dài to tướng cắt ngang dọc trần và sàn nhà như một đám giun đất khổng lồ. Không khí mờ ảo đặc quánh sương mù và lạnh như đá, khiến tôi hối hận sao không nghĩ đến chuyện mặc thêm áo khoác trước khi du hành thời gian - quả là một suy nghĩ kỳ quặc. Không hề để ý đến sự có mặt của những vị khách không mời là chúng tôi, một người mặc chiếc áo blouse trắng đang đứng bên bàn làm việc, hí hoáy vạch vẽ thứ gì đó trông như những công thức rối rắm lên một tấm bảng, rồi lại vứt toẹt phấn đi, nóng nảy xóa sạch. Một thoáng sau, ông nhặt mẩu vụn phấn lên và bắt đầu lại từ đầu. Tấm lưng gầy gò gù xuống như đã luôn phải chịu một gánh nặng vô hình. Ông Herbert trước mặt trông mệt mỏi nhưng đầy đặn, khỏe khoắn hơn phiên bản hồn ma đang đứng cạnh tôi đây.

Nhìn hồn ma ông Herbert im lặng ngắm nghía chính bản thân mình đang sống, tôi tò mò không biết ông đang nghĩ gì. Đúng lúc đó có tiếng cửa phòng bậc mở. Tôi vội nép vào một trụ thủy tinh gần đó.

“Cà phê, thưa ngài!”

“Cứ để đó cho tôi, Hạ sĩ.” Ông Herbert sống đáp, đầu không ngoảnh lại.

“Sắp rồi!” Hồn ma ông Herbert thì thào. “Đây chính là lúc ông chết! Nhìn kỹ vào, Frank! Chúng ta sẽ bắt được hắn!”

Mồ hôi trên trán chảy xuống khóe mắt. Tôi cố không đưa tay gạt đi. Ánh sáng đỏ càng khiến thần kinh tôi khó chịu. Không biết vì sao mà mọi thứ trong căn phòng này đều gây cho tôi một cảm giác bất an kỳ lạ. Tôi đảo mắt một vòng và dừng lại khi thấy nó. Một khuôn mặt đen trắng chễm chệ trên khung ảnh nhỏ được trang trọng dành riêng một góc trên bàn làm việc. Tôi nhìn đôi mày nhíu lại đầy cương quyết, cặp môi mím chặt không khoan nhượng bên dưới bộ ria bắt mắt, rồi đến ánh mắt khắc nghiệt quen thuộc đông cứng giữa khung ảnh. Tôi sững sờ, gai ốc nổi toàn thân.

Tôi thở dốc, “Ông Herbert,” Ông quay lại, nhìn tôi. “Người ông đã phục vụ…”

“Cháu nhận ra ông ấy à? Đó là người nhìn thấy được tài năng của ông. Người ấy biết thứ ông tạo ra sẽ mang lại kỷ nguyên mới cho thế giới. Rác rưởi sẽ được dọn sạch. Sẽ không còn gì cản bước giống loài chúng ta, một khi thứ này được khởi động. Công trình cả đời của ông đấy!” Giọng ông run run, tay giơ lên chào trong cơn kích động gần giống như động kinh. 

Nỗi khiếp đảm dâng lên như sóng trào trong dạ dày khiến tôi muốn nôn sạch mọi thứ ra ngoài. Mein Gott! Chúa của con, sao Ngài lại bắt con phải chứng kiến điều này? Không, tôi không thể cho phép thứ này tồn tại. Phải có ai đó ngăn điều này lại. Ai đó…

Tôi chợt nhận ra.

Tôi chính là người đó.

Chính tôi, chỉ tôi mới có thể làm điều đó.

Tôi chính là câu trả lời ông Herbert đang tìm kiếm!

Mỉa mai làm sao, tàn nhẫn làm sao!

Chúa ơi, Ngài đang thử thách con, như Ngài đã thử thách Abraham đấy chăng? Nếu làm điều này, con sẽ cứu cả nhân loại. Nhưng còn nhân tính của con, ai sẽ cứu vớt nó đây? Wer kann mein Kainsmal auslöschen?

Tôi đưa mắt nhìn xung quanh. Một con dao nhỏ nằm ngay gần, hệt như có sự sắp đặt của Thượng đế. Tôi hít một hơi thật sâu và cầm nó lên. Mũi dao sắc như nước. Tay tôi run bần bật, không phải vì sợ mà là vì ghê tởm trước khao khát làm điều mình sắp phải làm. Hồn ma ông Herbert, vẫn mải miết chờ đợi khoảnh khắc cái chết ập đến với chính mình, không thấy tôi bước đến trước. Đến khi ông nhận ra thì đã quá muộn. 

“Mein Gott! Franky! Franky! Cháu đang làm…”

Tiếng thét tuyệt vọng sau cùng của hồn ma tắt lịm như ngọn nến trước gió khi tôi cắm lưỡi dao ngập đến tận chuôi vào tấm lưng gồ lên sau lần áo blouse trắng, xuyên thẳng vào trái tim đang đập kia.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận